Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

Times (Unicode) font

 

Lời Kinh Xưa, Buổi Sáng Nầy

Nguyễn Duy Nhiên

Nhà Xuất Bản Sinh Thức
P.O. Box 1223, Herndon, VA 20172-1223, U.S.A.
Điện thoại: (703) 787-3377
Điện thư: [email protected]
Trang nh
à: https://www.sinhthuc.org


I. Đóa Tường Vi Vẫn Nở (tiếp theo)

Tách Trà Một Buổi Sáng

Sáng nay trời âm u và lộng gió, như muốn mưa. Lá đã bắt đầu rơi nhiều. Những chiếc lá xanh của khu rừng cạnh nhà cũng đang từ từ đổi sang màu vàng, đỏ, tím. Có vài thân cây cao lá vẫn còn xanh, nhưng những dây leo bám trên ấy lá đã dổi sang màu đỏ thẫm, lẫn trong đám lá xanh. Mùa thu đến bằng những buổi tối thật lạnh. Sáng ra vườn, tôi thấy những hạt sương đong thành đá trên những chiếc lá rụng trên sân.

Sáng nay tôi lấy chổi ra sau nhà quét lá. Mùa này sân nhà tôi không những đầy lá mà còn có vô số những hạt cây sồi rụng đầy. Trái nó khô, màu nâu, giống như quả cau nhưng nhỏ như trái chùm-ruột vậy. Bé Khánh Như chưa đầy một tuổi cũng theo Ba nó ra sân. Nó ngồi trong chiếc xe tập đi, loay quay chạy theo sau lưng tôi. Nó lượm đâu được một chiếc lá màu vàng tươi rơi trên ghế, rồi ngồi thẳng người dậy, nhăn mặt dùng hai tay cố sức xé ra thành từng miếng nhỏ, và sửa soạn đưa vào miệng. Tôi phải chạy lại ôm nó lên, phủi tay cho sạch rồi bế vào nhà.

Mùa thu là mùa của lá và màu sắc. Chắc chỉ chừng vài tuần nữa là khu vườn bên kia sẽ chuyển mình trở thành một đại dương của màu sắc. Vào những ngày gió lộng, lá sẽ bay ngợp trời cao, lao chao trong gió, in hình trên nền trời xám như những đàn bướm đủ màu. Mỗi mùa thu thường đến một cách chậm chạp và im lặng, chợt khi ta vừa biết thì nó cũng vừa mới đi qua.

Kinh nghiệm phi thường

Cái đẹp của thiên nhiên có khả năng nuôi dưỡng ta rất nhiều, bạn có nghĩ vậy không? Chẳng trách sao mà ngày xưa có những vị dám từ bỏ công danh phú quý, đi tìm một thảo am trong rừng núi, và chỉ cần "thu ăn măng trúc, đông ăn giá, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao" mà vẫn thấy hạnh phúc. Mùa thu nơi đây mà chúng ta đi thiền hành trên những con đường nhỏ trong rừng, chắc là nhãn quan sẽ bị ngộp vì màu sắc của lá, vì vẻ đẹp của mùa thu, bạn nhỉ!

Nhiều người thích đọc văn của Krishnamurti vì ông có một lối viết nhẹ nhàng và thường chen vào đó những cái nhìn của ông về thiên nhiên. Ông có một cái nhìn rất sâu sắc, thấy được sự nhiệm mầu của sự sống trong những sự việc tầm thường hằng ngày: một con đường đất bụi, một buổi sáng mưa, một chiếc lá mùa thu hay một buổi chiều nhiều mây. Ông nói, cái nhìn sâu sắc là một cái nhìn bằng tâm hồn ngây thơ chưa bị sai lạc vì thành kiến. Ông viết, "Đằng kia là một ngọn núi với bóng mặt trời hoàng hôn; hãy nhìn nó bằng một con mắt đầu tiên, nhìn nó như là ta chưa từng thấy nó bao giờ, nhìn với sự ngây thơ, với một ánh mắt được tắm trong sự trống không, chưa hề bị kiến thức làm hư đốn - được như vậy thì thấy là một kinh nghiệm phi thường."

Thấy là một kinh nghiệm phi thường! Tôi nhớ câu chuyện của thiền sư Huyền Sa. Một hôm thiền sư Huyền Sa đang ngồi trong thất, có một vị thị giả đứng hầu cạnh bên. Huyền Sa nhìn xuống nền thất thấy có một điểm trắng, ngài hỏi vị thị giả: "Ông có thấy điểm trắng ấy không?" Vị thị giả thưa: "Dạ con có thấy!" Ngài bảo: "Ta thấy, ông cũng thấy, vậy tại sao có người ngộ, có người không ngộ?"

Có lẽ mục đích của thiền là vậy, là để ta có thể thấy được như ngài Huyền Sa, như của Krishnamurti. Cái thấy ấy đưa ta về với sự sống đang có mặt trong giờ phút hiện tại. Nó giúp ta đi, đứng, nằm, ngồi, lắng nghe, cười nói, làm những công việc hằng ngày với trọn con người của mình. Thiền tập cho ta sống một cuộc đời bình thường bằng những "kinh nghiệm phi thường."

Hạnh phúc của hiện tại

Ngày xưa khi nghe nói rằng, ta có thể dùng sự an lạc để làm cây thước đo lường mức độ tu tập của mình, tôi thường tỏ ra không đồng ý. Nhưng giờ thì quan điểm ấy cũng đã thay đổi đi ít nhiều! Tôi hiểu rằng có được an lạc trong cuộc sống hằng ngày là ta đã tiến được một bước rất dài trên con đường tu tập rồi. Vì an lạc cũng là một trong những tính chất của Niết Bàn phải không bạn! Ông €A. H. Almaas trong quyển "Being and the Meaning of Life" có viết, "Chúng ta hay đi tìm hạnh phúc, niềm vui trong mọi nơi, bằng mọi cách, mà đôi khi quên đi một hạnh phúc giản dị nhất, căn bản nhất, mà cũng là to tát nhất: sống trong hiện tại. Nếu chúng ta thật sự có mặt trong giờ phút này, thì hiện tại tự nó có đầy đủ hết, mọi hạnh phúc, mọi niềm vui mà ta hằng tìm kiếm." Chân hạnh phúc không phải ở chỗ ta đạt được những gì mình muốn, mà là biết sống trong hiện tại.

Có lẽ sự sống tự nó có rất nhiều hạnh phúc. Nhưng nhiều khi ta cần được nhắc nhở lại điều ấy. Nhìn hoàng hôn xuống trên một bãi biển, lên cao xem mùa thu của núi rừng, uống một tách trà, đọc một quyển sách, đi dạo... tất cả đều tiềm chứa một niềm an lạc chân thật. Mỗi hành động, mỗi việc làm của ta trong giờ phút hiện tại, nếu khéo léo, đều có thể mang lại sự an lạc cho mình. Đôi khi chúng ta cần phải va chạm với khổ đau mới ý thức được những hạnh phúc bình thường nhưng thật nhiệm mầu ấy.

Mấy tháng trước, đứa con gái bị bệnh, tôi phải vào nhà thương ở với nó trong mấy tuần. Mỗi buổi chiều đứng trên lầu cao, tôi thường bồng nó nhìn ra ngoài kia cửa sổ, có ánh nắng hoàng hôn nhuộm vàng mặt hồ, xa xa thành phố bắt đầu lên đèn. Không gian ngoài kia khung cửa kính tuy gần gũi, nhưng đối với tôi thấy vô cùng xa xôi. Tôi muốn được đi ra ngoài, bước những bước chân thật bình thường, tự do như tất cả mọi người khác. Nhưng tôi hoàn toàn không có khả năng làm được chuyện ấy. Tôi nghĩ đến những buổi sáng đi dạo với người thân, ngồi chơi với bạn bè, ghé qua thăm một tiệm sách... Bạn thấy không, những việc tầm thường ấy nếu không là hạnh phúc, là phép lạ thì là gì? Tôi nhìn xuống đường, xem những người đi bộ hối hả qua lại. Tôi không hiểu họ có ý thức được rằng họ là những người đang có hạnh phúc nhất trên đời này không! Hay lại sống trong quên lãng, bỏ đi những hạnh phúc trước mắt, rồi vội vã đeo đuổi một ước mơ nào đó mà có lẽ họ sẽ không bao giờ có.

Sống với những gì mình đang có, với bất cứ sự việc gì đang xảy đến với mình, chuyện ấy đòi hỏi một sự tu tập. Một sự tu tập trong và ngoài thiền viện. Trong lần tham dự một khóa tu năm rồi, tôi có làm quen với một anh bạn. Mỗi năm anh đều bỏ ra một tháng để đi tu tập trong các thiền viện. Anh kể sau mỗi khóa tu, những ngày đầu trở về với thế giới bên ngoài, anh thường cảm thấy chóng mặt vì sự vội vã của những người chung quanh, nhất là ở những nơi như ga xe lửa hay phi trường. Anh thấy người ta đua chen nhau một cách vô ý tứ, hoàn toàn để cho hoàn cảnh sai xử. Nhưng chỉ vài tuần sau là anh không còn cảm thấy khó chịu nữa. Anh không còn thấy hành động của những người chung quanh là vội vã và hấp tấp. Lúc ấy anh tự hiểu khả năng duy trì chánh niệm của mình cũng đã suy giảm nhiều. Tuy vậy, anh cũng nhận thấy rằng những khóa tu tập nhiều ngày đã giúp anh có thể đối diện với những biến cố trong cuộc sống hằng ngày được hiệu quả hơn.

Hương vị một tách trà

Mùa thu là mùa của lá. Trên bàn viết của tôi vẫn còn một chiếc lá khô màu đỏ nhạt của mùa thu năm ngoái. Bây giờ nó đã bị vỡ thành hai ba mảnh. Mỗi buổi sáng đi làm tôi thường đi ngang qua một con đường nhỏ rợp lá cây che, có những vòm cây phủ kín bầu trời. Mấy hôm nay, đi ngang qua con đường nhỏ ấy lá đổ tứ phía. Tôi tưởng chừng như cả mùa thu của vũ trụ về tụ hội chỉ một nơi ấy.

Hình như thu năm nay trời lạnh sớm hơn mọi năm. Đứng ngoài hiên nhà tôi ngửi thấy mùi củi cháy thoảng trong không khí, quyện theo những làn khói bốc lên từ lò sưởi nhà hàng xóm. Phía dưới sân, vài con sóc chạy lòng vòng theo các gốc cây, chăm chỉ tha những hạt trái khô, tích trữ cho một mùa đông sắp đến. Tôi đi nấu một ấm nước để pha trà. Trong những lần đi tu học, tôi được dạy cách nâng một tách trà và uống cho thật an lạc, cho thật trọn vẹn, bằng cả thân tâm của mình. Tôi vẫn còn cố gắng thực tập. Nhớ có lần đọc được câu này, "Hãy ôm trọn những khổ đau, tăm tối của cõi ta bà này, cùng với những hạnh phúc và bình an của cuộc đời. Đừng sợ hãi, đừng phân biệt! Người dũng sĩ làm được chuyện ấy mới có khả năng thưởng thức được trọn vẹn hương vị của tách trà." Mỗi khi nâng lên một tách trà trong hai tay, tôi thấy mùa thu về thật bình yên.

--ooOoo--

Đóa Hoa Dại Màu Tím

Đi thiền hành ngoài trời giữa thiên nhiên vào mùa này đẹp lắm. Nhất là ở nơi đây, chung quanh có đồi núi, có rừng xanh mát lá, có những con suối nhỏ nước trong. Chả bằng vào mấy tháng trước, đang giữa mùa xuân hoa nở tràn ngập, phấn hoa cũng bay mù trời. Nhất là vào những ngày có nắng và gió, bước ra ngoài sân chừng vài phút là tôi bị cay mắt, hắt hơi, thật là khó chịu. Mùa xuân ở đây đẹp lắm, thiên nhiên huyền diệu đủ mầu sắc, nhưng tôi đành chịu, không thể nào ra ngoài được.

Đầu mùa hè vào tháng này trời vẫn còn mát. Khu rừng nhỏ ở cạnh nhà giờ đã xanh um. Những ngày đẹp trời tôi hay đi dạo ở đó, có một con đường mòn nhỏ băng qua một chiếc cầu gỗ bắt ngang con suối, dẫn lên một ngọn đồi ít cây, có một hồ nước trong. Vào buổi sáng tiếng chim hót rộn rã trên những tàng cây cao. Ánh nắng bình minh vàng cam đổ loáng thoáng qua kẽ lá, chiếu tan sương mù.

Bạn có lần nào đi thiền hành trong một ngôi rừng nhỏ hoặc ở một công viên xanh mát cây không? Tôi thấy nó có thể làm an tĩnh thân tâm ta nhiều lắm. Những lúc ấy ta có thể dễ dàng cảm nhận được những cái đẹp có mặt chung quanh mình. Như là ánh mặt trời buổi sáng bể vụn vỡ trên mặt hồ nước trong, những hạt sương thủy tinh còn đọng trên cỏ lá, cái cảm giác lành lạnh của những áng mây trắng vào buổi ban mai...

Đóa hoa dại màu tím

Sáng nay thiên nhiên thật xanh mát. Ở đây tôi không có trà mời bạn, nhưng sáng nay trời có nắng và ít sương mù, nên không gian cũng đủ ấm. Chắc bạn vẫn còn nhớ ông Henry David Thoreau. Ông là một nhà thiên nhiên học nổi danh của thế kỷ trước, rất yêu rừng núi, sông hồ. Có lần ông tìm đến một ngôi rừng nhỏ, cạnh hồ Walden, và sống một mình trong hơn hai năm trời. Khi còn sống giữa xã hội, mỗi ngày ông Thoreau bỏ ra ít nhất là bốn giờ đồng hồ để đi bộ trong rừng. Tôi không nghĩ ông biết đi thiền hành như chúng ta đâu, nhưng ông viết rằng, những lần đi dạo như vậy nuôi dưỡng, bồi bổ cho tinh thần và sức khỏe của ông rất nhiều. Ông Thoreau còn nói thêm, sống giữa thiên nhiên sẽ giúp cho ta được trở nên chân thật và dễ thương hơn.

Tôi nhớ có một câu chuyện về một anh chàng nọ suốt đời quen sống trong thành phố. Khi vào tuổi trung niên, anh ta gặp nhiều việc không may, bị thất bại trong công việc làm ăn, sản nghiệp tiêu tan hết. Một hôm vì quá chán nản nên anh có ý định muốn tự tử. Đêm ấy anh quyết định lái xe lên một ngọn núi cao. Đến nơi thì trời cũng đã gần sáng, anh leo lên một tảng đá lớn định gieo mình xuống vực thẳm. Lúc đứng trên cao, anh nhìn thấy cảnh hùng vĩ của núi rừng dưới ánh nắng ban mai. Lúc ấy tự nhiên anh cảm thấy được sự nhỏ nhoi của mình, của nỗi khổ đau mà anh đang mang nặng trong tâm. So với cái mênh mông của vũ trụ này thì nó không có nghĩa lý gì cả. Anh bất chợt nhìn thấy một đóa hoa dại màu tím, thật đẹp, mọc từ một vách đá. Cuộc đời còn có biết bao nhiêu những cái hay, cái đẹp khác. Sự sống, vẻ đẹp, hiện hữu khắp mọi nơi, cho dù anh có để ý đến hay không. Đứng giữa trời núi thênh thang, anh thấy những khổ đau của mình là nhỏ bé. Và rồi cuối cùng anh đã bỏ ý định tự tử, trở về với cuộc sống, và mang theo một ý thức mới.

Như vậy thì có lẽ ông Thoreau nói còn thiếu, vì không những thiên nhiên giúp cho ta được chân thật hơn, dễ thương hơn, mà có khi còn có thể cứu sống được ta nữa.

Có lẽ bạn cũng như tôi, chúng ta đâu có thể bỏ ra mỗi ngày bốn tiếng đồng hồ để đi dạo trong rừng như ông. Mà theo tôi thì bốn tiếng cũng là hơi nhiều đấy bạn hở! Tôi biết có nhiều người đi dạo chừng nửa giờ ở những nơi vắng vẻ cũng đã là cảm thấy nhàm chán lắm rồi. Họ thích đi vào những trung tâm thương mại lớn, những chỗ náo nhiệt đông người, bao giờ cũng thú vị hơn!

Bước chân thiền hành

đây tôi muốn góp ý với bạn về chuyện thiền hành. Các thiền sư dạy rằng, trong khi đi thiền hành ta không nên có một mục tiêu nào hết. Việc ấy nghe tưởng giản dị nhưng sự thật thì không dễ. Vì chúng ta đã bị điều kiện lâu đời lâu kiếp là làm một việc gì cũng cần phải có một mục đích. Nhưng trong khi đi thiền hành, ta không có một nơi nào để đến hết. Thiền hành là một trong những phương tiện giúp ta tiếp xúc với thực tại, bây giờ và ở đây. Mà thiên nhiên là một thực tại quá nhiệm mầu phải không bạn!

Trong khi đi thiền hành chúng ta không cảm thấy mình tiếp xúc được với thiên nhiên, có thể vì ta còn nhiều vướng mắc quá. Những muộn phiền, lo âu của ta trong cuộc sống hằng ngày, và đôi khi ngay cả những ý niệm về hạnh phúc, về thiên nhiên, về thiền hành cũng có thể là chướng ngại cho sự thực tập của ta nữa. Thiền hành là một nghệ thuật cần nhiều sự trau luyện. Nhưng nói thì nói vậy, chứ tôi nghĩ thật ra không có vấn đề thực tập đâu bạn. Vì khi chúng ta nói tôi tập đi thiền hành thì có vẻ như là có hai tiến trình hoàn toàn khác biệt, một là tập đi thiền hành và hai là thật sự đi thiền hành. Nó làm như là trước hết ta phải tập đi cho thuần thục cái đã, rồi sau đó mới thật sự đi vậy. Sự phân biệt ấy là vô lý và không có thật phải không bạn, vì cả hai việc chỉ là một. Chúng ta tập đi thiền hành bằng cách thật sự đi thiền hành. Và chỉ có mỗi một cách đó mà thôi.

Một buổi chiều trong rừng thu tháng mười một, tôi bắt gặp một mặt trời hoàng hôn thật đẹp. Ánh nắng chiều nhuộm vàng khu rừng đầy lá thu tĩnh lặng, tôi cảm được mặt trời hoàng hôn đang ủ chín những chiếc lá, ngửi được mùi cỏ cây của mùa thu, nghe thấy tiếng lá rơi trong không gian. Tôi chưa bao giờ được đứng trong ánh nắng vàng ấm ngập tràn nhiều như vậy. Lúc ấy, trước một vẻ đẹp vô cùng của thiên nhiên, tôi chợt cảm thấy được tính chất cô tịch của nó, dầu có ai để thưởng thức hay không, thiên nhiên vẫn cứ đẹp nhiệm mầu.

Mỗi khi nói đến thiền hành là tôi thường nghĩ đến một khu rừng nhỏ, một dòng suối, một vườn cây hoặc một công viên xanh mát nào đó. Tôi tin rằng những thiền sư vẫn có thể an nhiên đi thiền hành giữa đường phố Nữu Ước hoặc trong những shopping centers mà vẫn cảm thấy an lạc. Các ngài là những người có thể làm tươi mát được không gian chung quanh họ. Nhưng chắc đa số chúng ta vẫn phải cần có một khoảng không gian xanh mát, rộng mở trên con đường thiền hành của mình.

Thiên nhiên có khả năng nuôi dưỡng được tâm hồn ta, khai triển sức sáng tạo của ta. Thiền hành là một phương pháp huyền diệu giúp ta tiếp xúc được với thiên nhiên và thực tại. Tôi may mắn sống ở vùng này, có thể dễ dàng đến những nơi có đồi núi, suối, rừng, có những cánh đồng cỏ đầy hoa dại vàng, đỏ, tím chạy đến tận chân trời. Nhưng không biết thực tại ấy sẽ còn được bao lâu. Khu rừng nhỏ cạnh nhà tôi mỗi ngày lại càng trở nên nhỏ bé hơn. Vào mùa đông tôi có thể nhìn thấy xuyên qua phía bên kia, bây giờ đã trở thành một bãi đất rộng trống, với xe ủi đất, xe cam-nhông chở đầy đất đá. Vài tháng nữa sẽ có những dãy nhà chen chúc xây lên bên ấy. Mấy tuần trước tôi thấy có một bầy nai nhỏ lang thang từ trong trong rừng ra đứng ngơ ngác trước sân nhà. Trông tội nghiệp! Quê hương chúng mỗi ngày lại trở nên nhỏ bé hơn.

Thiên nhiên thì vậy mà đời sống chúng ta thì càng lúc càng bận rộn hơn. Bạn nghĩ xem, việc làm ở sở rồi đến những chương trình ti-vi ở nhà, chúng giam giữ chúng ta trong một không gian đóng kín. Không khéo có lẽ chừng mười năm nữa, chỉ việc bước ra ngoài với thiên nhiên thôi cũng đã là một phép lạ rồi!

Hải đảo tự thân

Trong khóa tu học vừa qua, có một người bạn bảo với tôi rằng, chị ta cũng ưa thích thiên nhiên lắm chứ, nhưng nếu bắt chị đi dạo một mình thì chị sẽ cảm thấy buồn chán và cô đơn lắm. Tôi nghĩ đó không phải là riêng chị mà có lẽ là tâm lý chung của đa số chúng ta. Nhưng không phải ai cũng vậy, tôi muốn đọc cho bạn nghe những lời này của ông Henry Thoreau, "Người ta thường bảo tôi rằng, 'Ông sống một mình trong rừng như vậy chắc là cô đơn lắm, nhất là vào những ngày mưa hay tuyết, và những đêm khuya.' Tôi muốn trả lời với họ rằng, trái đất mà chúng ta đang sống đây chỉ là một điểm nhỏ bé trong vũ trụ. Như vậy thì khoảng cách giữa chúng ta với nhau trên quả đất này có là bao nhiêu? Tại sao tôi lại phải cảm thấy cô đơn? Có phải trái đất của chúng ta đang nằm ở giữa dãy ngân hà không? Khoảng cách nào trên mặt đất này lại có thể ngăn cách hai người khiến họ cảm thấy cô đơn? Tôi không cô đơn hơn một đóa hoa rừng hay một cánh bồ-công-anh (dandelion) giữa một đồng cỏ mênh mông, hoặc một lá đậu, hoặc một con chuồn chuồn, hay một con ong đất. Tôi không cô đơn hơn một con suối vắng, một chiếc chong chóng gió đứng chơ vơ giữa cánh đồng, hoặc ngôi sao bắc đẩu, một ngọn gió từ phương nam, một cơn mưa tháng tư, hoặc tuyết tan vào tháng giêng, hay một con nhện đầu tiên trong một ngôi nhà mới." Cô đơn cũng chỉ là ý niệm mà thôi. Nếu ta không có khả năng tiếp xúc được với những gì đang có mặt chung quanh mình, thì ở đâu cũng vậy thôi, ta sẽ cảm thấy cô đơn lắm.

Thiền hành dạy cho ta một phương pháp sống, tỉnh thức và an lạc. Cuộc sống hằng ngày trong xã hội có thể khiến cho ta trở nên bận rộn và vội vã phi thường. Bạn nghĩ coi, có thời đại nào mà trái đất lại trở nên nhỏ bé như bây giờ không? Với sự phát minh của máy điện toán, điện thư, cellular phone, information super-highway... sự thu thập tin tức, truyền thông của chúng ta mỗi lúc càng trở nên tức thời và hiệu quả hơn. Những phát minh ấy có thể đem đến cho chúng ta nhiều lợi lộc, nhưng cái tai hại của nó cũng rất là ghê gớm, vì chúng ta có thể dễ dàng đánh mất đi chính mình. Tâm hồn ta có thể trở thành một căn nhà với những cánh cửa mở toang hoang, mặc tình cho thời tiết, dông tố, mưa gió bên ngoài tạt vào trong. Bạn nghĩ sao, chúng ta có thật sự cần phải biết hết tất cả mọi vấn đề trên thế giới này không? Không phải tôi nghĩ chúng ta nên làm ngơ, bịt tai, che mắt lại, nhưng ta phải biết thật cẩn trọng gìn giữ cho mình, thế thôi.

Tôi nhớ có lần nghe thầy Nhất Hạnh nói rằng, mỗi năm thầy đi dạy nhiều nơi trên thế giới, nên đi phi cơ rất là nhiều. Giả sử như chiếc phi cơ của thầy không may bị rơi, thầy sẽ thực hành theo một bài kệ, trong đó có hai câu "Quay về nương tựa, Hải đảo tự thân..." Ngày xưa tôi vẫn thường hay thắc mắc và có thành kiến về cái hải đảo tự thân ấy. Vì tu có nghĩa là phải phá đi cái Ngã chấp của mình phải không bạn! Nhưng thật ra vấn đề là vì chúng ta vẫn còn bị lẩn quẩn, vướng mắc trong mớ chữ nghĩa, ý niệm mà thôi! Tự thân mà thầy Nhất Hạnh muốn nói đó nó sâu xa và nhiệm mầu hơn là ta nghĩ. Nó sẽ là một nơi nương tựa vững vàng và an ổn cho ta trong những lúc nguy khốn, khổ đau.

Ta cần phải tìm thấy được cái hải đảo tự thân của chính mình. Nơi đó không có sự cô đơn. Ở nơi đó ta sẽ khám phá ra rằng mình là một với tất cả. Và thiền hành là một phương pháp giúp ta tìm lại cái hải đảo của tự thân ấy. Ta xây dựng nó bằng hơi thở, bằng chánh niệm, bằng những bước chân có ý thức, bằng lá xanh, bằng những áng mây trắng...

Tháng trước tôi lên núi tu học. Một buổi sáng tinh mơ, đi lên một ngọn đồi cỏ đầy hoa rừng, sương mù trùm phủ, như mây. Buổi sáng nay trời nắng ấm và trong. Tôi thấy những tàng lá cây xanh phản chiếu trên mặt hồ tĩnh lặng, loáng thoáng ánh mặt trời. Thiên nhiên ở mùa nào cũng đẹp. Như lời xưa viết, "Mây trắng bao giờ cũng trong sáng và an tịnh, những dòng sông bao giờ cũng thong dong chảy ra biển cả. Thế giới tầm thường này tự nó bao giờ cũng an nhiên và tĩnh lặng, nhưng chỉ vì con người muốn tự tạo nên phiền não cho chính mình mà thôi.... Đứng trên đầu một cây sào cao trăm trượng, ta phải dám bước tới thêm một bước nữa - và chừng ấy muôn hình tướng của thế giới này sẽ hiển lộ tự thân của nó cho ta thấy." Bước chân ấy của ta, chắc chắn phải là một bước chân thiền hành, phải không bạn?

--ooOoo--

Mùa Thu Bếp Hồng

Tôi biết trời vào thu khi những buổi sáng có nhiều sương mù. Ngoài sân có những hạt sương đóng thành băng phủ trắng màu cỏ. Mây như khói trôi vướng trên đỉnh rừng, trên những ngọn đồi có vài khoảng đã chuyển màu vàng nhạt. Hình như mùa thu nào cũng vậy, bắt đầu bằng những ngày mưa ướt át. Chiều qua ra sân sau quét lá, tôi thấy ánh nắng hoàng hôn để lại những dấu vết miên viễn trên khu rừng nhỏ sau nhà. Thu về rồi đó. Có một chiếc lá đỏ rơi nhẹ xuống sân cạnh chỗ tôi đang đứng. Trời đã trở lạnh tự một sáng nào. Không hay.

Đứa con gái tôi mùa thu năm nay được ba tuổi. Có lẽ đây là lần đầu tiên nó biết mùa thu. Tôi sẽ đi với nó ra sân, giúp nó nhặt những chiếc lá màu thật đẹp đem về bỏ vào chiếc cặp đeo lưng đi học của nó. Có mấy hôm đến đón nó ở trường, vào mùa hè, thấy tôi nó chạy lon ton lại từ chiếc xích đu nhỏ ở giữa sân, mỗi tay cầm một chiếc lá khô héo lượm được đâu đó trên sân. Nó cho tôi một cái, còn một cái để dành cho em nó. Nó có vẻ thích hoa lá lắm. Mùa thu lá đổi màu rộ như hoa, thật huyền diệu. Ngày xưa hay có những thiền sư chống gậy lên núi nhìn mùa thu. Một buổi chiều đứng nhìn đồi núi mùa thu, tôi tưởng chừng như tất cả những tia nắng hoàng hôn trong vũ trụ cùng nhau về đây nghỉ ngơi trên chuyến du hành miên viễn của chúng.

Chiều qua có một người bạn cũ ghé qua thăm. Chúng tôi ra sau nhà uống trà. Trời lành lạnh, tách trà thơm ấm. Anh nhắc cuộc đời trôi nhanh quá. Hình như càng bận rộn bao nhiêu, ngày tháng lại qua mau bấy nhiêu. Chúng tôi ngồi yên. Mây trôi trong tách trà thơm. Anh bạn kể cho nhau nghe những mệt mỏi trên hành trình đã đi. Tu tập cũng không phải là chuyện dễ. Tôi có cảm tưởng như anh là một tráng sĩ, chợt một ngày dừng lại bên rừng thấy chuyện đời là vô nghĩa. Ngay cả cái lý tưởng ban đầu của mình kia cũng là vô nghĩa, dầu có là cao thượng đến đâu. Tách trà của anh đã chứa đựng bao nhiêu những là mùa thu rồi nhỉ!

Những lời anh nói làm tôi suy nghĩ. Việc anh làm có thật sự cần một lời giải thích nào không? Cuộc sống này cần phải có một ý nghĩa chăng? Tôi không rõ. Tôi thấy mùa thu lang thang về theo không gian lành lạnh, phảng phất trên một bầu trời ít mây, thấp thoáng trong những chòm lá đang đổi sang màu trái cây chín. Có hay không thì ý nghĩa ấy mấy ai có thể nói được!

Ngày xưa đọc những câu chuyện về thiền tôi vẫn thường cảm thấy ngẩn ngơ. Những câu chuyện ấy khó hiểu không phải vì chúng quá bí hiểm, mà có lẽ vì chúng quá rõ ràng. Bạn thấy không, đôi khi sự rõ ràng cũng lại có thể là một "chướng ngại" lớn cho tri thức của mình nữa.

Một hôm có một ông quan ghé qua thăm thiền sư XuanSha. Cả hai người ngồi nói chuyện ngoài vườn. Ông quan hỏi ngài: "Thưa thầy, tôi vẫn hay thường nghe người ta nói 'Chúng ta ai cũng sử dụng NÓ', nhưng tôi suy nghĩ mãi vẫn chưa hiểu NÓ đó là cái gì?" Thiền sư XuanSha không trả lời, đưa dĩa đựng hạt dưa lên mời ông quan. Ông ta lơ đãng đưa tay bốc lấy một hạt dưa lên miệng cắn, rồi hỏi tiếp: "Thưa thầy, thầy vẫn chưa trả lời cho tôi biết NÓ là cái gì?" Vị thiền sư chỉ những hạt dưa trong dĩa và đáp: "NÓ chính là những CÁI NÀY đây, ông tiếp xúc với nó mỗi ngày mà có biết đâu!"

Một câu chuyện khác. Một người học trò của thiền sư NiaoWo một hôm vào lạy từ giã ngài, "Kính thưa thầy, con xin đội ơn thầy đã bỏ công dạy dỗ con suốt mấy năm nay, nhưng con thấy bây giờ đã đến lúc con phải lên đường." "Thế con định sẽ đi đâu thế?" Người học trò đáp: "Dạ thưa thầy, con định sẽ đi khắp nơi đây đó để tu học Phật pháp." Thiền sư NiaoWo nói: "Thế sao ngươi không hỏi ta, ta có giữ Phật Pháp nơi đây này!" "Đâu thầy?" Người đệ tử mở to mắt hỏi! Thiền sư NiaoWo kéo ra một sợi chỉ trong tay áo ngài nói: "Đây này! Cái này nếu cũng không phải là Phật Pháp thì là gì?"

Một câu chuyện thiền khác. Có ba người đệ tử đứng ngoài sân chùa nhìn thấy thầy mình đang đứng một mình trên đồi. Cả ba rủ nhau đi lên đồi hỏi xem thầy mình đứng đấy làm gì. Người thứ nhất hỏi: "Thưa thầy, thầy đứng chờ ai vậy?" "Ta không chờ ai hết." Người đệ tử thứ hai nói: "Trời đẹp quá, chắc thầy đứng đây để ngắm phong cảnh?" "Không phải." Người thứ ba hỏi tiếp: "Hay là thầy lên đây để hít thở không khí trong lành?" "Không!" Vị thầy đáp. "Thế thầy đứng đây để làm gì?" Vị thầy nhìn ba người đệ tử mỉm cười đáp: "Ta đứng đây là vì ta đứng đây. Chỉ có vậy thôi!"

Việc chúng ta làm có cần phải có một ý nghĩa nào không bạn! Tôi cũng không rõ! Câu hỏi ấy tưởng chừng như đã trả lời nhưng nhìn cho sâu thì nó không giản dị như ta nghĩ.

Tôi mới đi tham dự một khóa tu học về. Lên núi lá cây trên đường vẫn còn xanh. Sau mấy ngày trở về, trên đường xuống núi lá đã đổi màu, vàng, đỏ, tím ửng tươi. Mấy ngày tu tĩnh trên núi tôi đã học rất nhiều về hạnh phúc, về an lạc. Trên con đường thiền hành, hai đứa con tôi chạy lăng xăng chỉ cho tôi những bông hoa dại, nó ngạc nhiên chăm chú ngồi nhìn những con sâu, con kiến như một phép lạ, một kỳ quan. Nó chưa thắc mắc gì về sự sống. Nó chưa hỏi tôi về ý nghĩa của cuộc đời này. Có lẽ những em bé chỉ biết sống, đơn giản như vị thiền sư đứng một mình trên núi kia. Thiền sư Đạo Nguyên gọi đó là sơ tâm, một bản tâm chân thật sơ nguyên mà tự nó có đầy đủ hết tất cả. Chưa bao giờ có một câu hỏi.

Xóm mới

Nếu bạn có dịp ghé qua miền này một lần, bạn hãy chọn mùa thu. Không bao giờ sẽ có một mùa thu giống nhau. Cũng như chưa từng bao giờ có hai chiếc lá giống như nhau. Người ta thường cho rằng mùa thu biểu hiện cho sự tàn úa, nhưng tôi nghĩ khác. Tôi thấy một sự sống nhiệm mầu biểu hiện trong mùa thu. Bạn có bao giờ đi dạo trong rừng thu chưa? Nhất là vào những buổi hoàng hôn lộng gió, nắng và lá hòa nhập vào nhau biến hóa trùng trùng màu sắc. Âm thanh của lá lào xào trên cao, dưới chân như tiếng sóng trùng dương. Có một vị thiền sư, một đêm đông bước chân ra về từ nhà người bạn. Tuyết mới bắt đầu rơi. Ngước mặt lên nhìn những bông tuyết mới tinh, ngài quay sang bảo người bạn: "À, nhìn những bông tuyết ngoan hiền kia, mỗi hạt tuyết đều rơi xuống đất đúng theo vị trí đã định sẵn của chúng!" Bạn có thấy vậy không, mỗi chiếc lá đều có một vị trí, sự sống riêng biệt và đặc thù của nó. Thật kỳ diệu!

Chúng tôi rót thêm trà. Khói bốc lên ấm một khoảng không gian nhỏ bé. Vì sao chúng ta lại làm những chuyện mình đang làm! Tôi không nghĩ đó là một câu hỏi, nên có lẽ không cần một câu trả lời. Ta hãy trở về với hơi thở của mình để tìm lại ngọn lửa ấm trong tâm, để sưởi ấm đôi bàn tay. Thầy Nhất Hạnh có một bài thơ nói về bếp hồng lửa ấm.

Sáng hôm nay hộp diêm của tôi hết rồi
bếp lạnh như trời cuối thu ướt lạnh
tác phẩm dở dang còn đó
tôi sang nh
à láng giềng xin lửa
(hồi bé chúng ta thường hai đứa chạy xin)
em hỏi tôi sẽ l
àm sao nếu nhà láng giềng không còn lửa
- chúng tôi sẽ họp hai người hát ca
nhớ lời em dặn 'là những bông hoa'
chúng tôi sẽ cầm đuốc đi bên nhau hướng về Xóm Mới
em cũng cứ hát ca đi, trong khi chờ đợi,
thế n
ào trong xóm ta cũng có nhà còn lửa.
Thôi tôi xin mọi người đưa tay nói thực: có phải
tất cả chúng ta đang tin ở điều đó như đang
tin hôm nay ở hiện hữu nhiệm mầu?
Tôi biết có những nh
à nghèo, nhưng trấu hồng ngún
cháy ngày đêm trong bếp hồng âm ỉ
tôi sẽ nhớ lời em không quấy động bếp lành
một nắm rơm đặt vào
đợi khói tỏa màu xanh,
em nhìn xem: chỉ một hơi thở nhẹ của hồn tôi thôi
cũng đủ gọi về lửa đỏ.

Anh về, người lữ khách hôm nay thấy l
òng ấm áp
một buổi chiều nhìn khói lam ấp ủ mái tranh thơ
về xóm mới chúng tôi đi! tất cả vẫn mong chờ
em tôi vẫn c
òn trông nom chút lửa hồng bếp cũ
mái chèo xuôi nước sông
thuyền về không do dự
sao đêm an lành thuyền anh đi mãi
nhìn bóng chiều sa không ngại
vì biết tình thương hôm nay còn đủ sưỡi ấm ngày mai
bếp tôi ấm rồi, mời anh về với chúng tôi thôi
công phu của ai ngàn năm bắc một nhịp cầu nối liền xa cách
tác phẩm c
òn tươi nét mực
lấy giọng trong lành, em tôi sẽ đọc cho chúng
m
ình nghe, bên tiếng nổ tí tách của những
cành lửa reo vui.

Có lẽ một đôi khi chúng ta cũng cần phải đi tìm một chút lửa về đun ấm lại bếp hồng của nhà mình. Bạn hãy nhớ trông nom chút lửa hồng trong bếp cũ. Chỉ khi nào bếp ta nguội lạnh, ta mới bắt đầu có những thắc mắc về cuộc sống. Trong những ngày tu học, chúng tôi tập có ý thức về hơi thở, về sự sống, chúng tôi tập mỉm cười, săn sóc lại ngọn lửa ấm trong bếp hồng nhà mình...

Ngày xưa có một vị lương y trong quân đội. Vào thời có chiến tranh ông phải tháp tùng theo quân lính ra trận và có nhiệm vụ săn sóc, cứu thương cho những binh sĩ. Năm này sang năm nọ, ông nhìn thấy những binh sĩ mà ông mới vừa cứu sống, leo lên ngựa xông ra chiến trận, rồi lại bị thương hoặc có đôi khi là tử trận.

Vị lương y đâm ra chán nản, không biết những việc mình làm thật sự có ích lợi gì. Ông tự hỏi "Nếu số phận của họ là phải chết thì ta cứu sống họ làm gì? Nếu nghề thầy thuốc của ta là hữu ích thì tại sao ta không cứu được họ?" Một ngày nọ, ông bỏ đi một mình lên núi tìm theo học đạo với một vị thiền sư, mong tìm một câu trả lời. Sau nhiều năm tu tập, ông xuống núi và trở lại xin làm lương y cho quân đội. Ông tiếp tục săn sóc, chữa lành cho những binh sĩ bị thương, để rồi lại nhìn họ ra trận bị thương hoặc tử trận. Nhưng ông vẫn cứ vui vẻ với việc làm của mình. Nếu có ai thắc mắc hỏi ông, ông chỉ giản dị trả lời: "Vì tôi là một lương y!" Thế thôi. Đâu còn một câu trả lời nào chân thật hơn, phải không bạn!

Bây giờ là đầu mùa thu. Chúng tôi ngồi yên nhìn mây trôi với lá. Trời mùa thu ướt lạnh. Bạn hãy thở để làm ấm hiện hữu nhiệm mầu. 'Em nhìn xem: chỉ một hơi thở nhẹ của hồn tôi thôi, cũng đủ gọi về lửa đỏ...' Mùa thu về với chiếc lá màu đỏ thẫm trong tay bé Khánh Như. Nó lăng xăng chạy khắp sân chọn lựa những chiếc lá đủ màu. Được nhìn một đồi núi rừng cây chín lá mùa thu, có ai còn tìm được một ý nghĩa nào khác chân thật hơn nữa đâu bạn nhỉ.

--ooOoo--

Rừng Trưa Im Nắng

Nắng trong. Một ngôi rừng nhỏ. Nơi đây đi chừng năm mười phút bạn sẽ gặp một con suối nhỏ chảy róc rách tiếng thủy tinh. Lòng suối trong sỏi cát. Những buổi trưa giữa rừng không gian yên tĩnh lạ. Ngàn bóng lá chập chùng in bóng trên mặt nước, loáng thoáng trên đồi cỏ và che mát con đường đất nhỏ. Một buổi trưa không gian quạnh quẽ. Tôi ngồi xuống bên bờ suối, hơi nước bốc lên mát lạnh, giữa những thân cây xưa loang lỗ bóng nắng.

Một vầng trăng đẹp

Có bao giờ bạn đi giữa một khu rừng trưa, trên cao có nắng và lá, rồi bỗng nhiên cảm thấy cuộc sống mình đầy đủ không? Cái cảm giác đầy đủ ấy đem lại cho ta một sự an lạc. Việc ấy không phải là nhờ suy luận hay một tính toán nào. Mà tôi nghĩ, lý trí không có khả năng đem lại cho ta một sự đầy đủ nào được đâu. Khi ta bằng lòng với hiện tại của mình, cái cảm giác đó là một sự an lạc. Ở đây, bây giờ là một khu rừng trưa. Nhưng chiều nay nếu được đi dạo trên bờ biển với một người thân, nhìn hoàng hôn xuống ở chân trời, cũng có thể là một hạnh phúc bạn nhỉ! Quan niệm của tôi về hạnh phúc có lẽ khác với bạn, nhưng tôi nghĩ tự thể cũng đều giống như nhau. Chúng đơn sơ và bình dị hơn là ta tưởng. Có lẽ một ngày nào, khi ta thôi đuổi bắt theo tương lai hoặc quay về tìm kiếm trong quá khứ, hạnh phúc sẽ lộ dạng cho ta thấy, nó hiện hữu ngay trong giờ phút này. Đó có thể là một buổi trưa rừng xanh lá, một ánh trăng rơi trong tách trà, tiếng cười của một người thân yêu, một bài thơ đẹp, hay là một em bé đang say ngủ... Sự an lạc đôi khi rất bình dị. Nhưng có điều quan trọng, hạnh phúc ấy phải thật sự là của ta. Lật những trang xưa trong kinh điển có ghi chép những câu chuyện về hạnh phúc, về an lạc. Nhưng ta cũng nên cẩn trọng, đừng vội lấy đó mà làm mẫu mực cho mình. Đọc những câu chuyện trong nhà thiền chắc bạn cũng nhớ ngài Ryuokan. Ngài nổi tiếng là một thiền sư sống một cuộc đời đơn giản trong một căn lều nhỏ dưới chân núi. Vào một buổi chiều khi ngài đi vắng, có một tên trộm lén vào lục soát để lấy đồ. Nhưng hắn chẳng tìm thấy một vật gì có giá trị. Khi ấy Ryuokan về đến, thấy vậy ngài nói: "Có lẽ anh từ xa đến đây. Không lẽ tôi lại để anh đi về tay không sao đành. Tôi chỉ có bộ quần áo mặc trên người đây là đáng giá. Thôi anh hãy lấy để làm một món quà." Tên trộm lộ vẻ bối rối, ngạc nhiên. Hắn bèn cầm bộ quần áo của ngài trao cho rồi lủi thủi trốn đi mất. Còn lại Ryuokan ngồi một mình trần truồng, ngước mắt nhìn ánh trăng rằm vằng vặc, ngài nói thầm: "Tội nghiệp anh bạn nghèo khổ ấy. Ước gì ta có thể cho anh được vầng trăng đẹp này!"

Những bậc thiền sư có được những hành động phi thường như vậy là vì các ngài thật-sự-là-như-vậy. Sự an lạc của các ngài rất tự nhiên và những hành động của ngài không có sự do dự và tính toán. Bạn và tôi, khi chúng ta cố gắng trở thành một nhân vật nào không phải là mình, chúng ta sẽ bị nô lệ, ràng buộc vào những ý niệm khô chết, cứng ngắt. Không khéo vô tình ta lại chỉ tạo thêm những khổ đau không cần thiết cho mình mà thôi. Những câu chuyện ấy rất cao thượng và đầy ý nghĩa khuyến tu, nhưng ta hãy thận trọng, vì sự tu tập của ta không phải chỉ là giản dị bắt chước y theo các bậc thiền sư ấy.

Những ánh trăng ngày mười lăm, mười sáu đẹp thật chứ bạn nhỉ! Có những đêm trở về, đi trên con đường nhỏ dẫn vào nhà, tôi bắt gặp ánh trăng to tròn sáng vằng vặc trên cao, soi những bóng cây đổ dài trước sân cỏ. Một không gian bí mật và huyền diệu. Cuộc đời này, giữa những dập dồn của khổ đau và hạnh phúc, đôi khi chúng ta vẫn có dịp bắt gặp những giây phút tĩnh lặng. Lắm khi thật bất ngờ. Sự tu tập, có lẽ mục đích là để giúp cho ta thấy được những giây phút ấy thường xuyên hơn!

Ta là ai?

Ở Tây phương ngày nay có rất nhiều thiền viện và trung tâm tu học mọc lên khắp nơi. Đó cũng là một điều may mắn, vì nếu biết khéo sử dụng, chúng có thể trợ giúp cho ta rất nhiều trên con đường tu tập. Nhưng bạn đừng xem những thiền viện như là những nơi để ta trốn tránh cuộc đời này. Ngược lại những nơi ấy phải có khả năng nuôi dưỡng ta, đem ta trở về hội nhập với sự sống, với những gì đang xảy ra chung quanh mình. Chúng ta phải ý thức được rõ ràng mình là ai trong giây phút hiện tại này và phải biết cách đối phó với những gì đang xảy ra chung quanh ta.

Mấy năm trước tôi có đi tham dự một khóa tu thiền Vipassana theo truyền thống Nam tông. Chúng tôi được vị thiền sư chỉ dẫn cho phương pháp ngồi yên lặng và theo dõi hơi thở của mình. Hai việc ấy tuy đơn giản nhưng rất khó mà thực hành cho đúng đắn. Mỗi ngày chúng tôi được phép vào gặp riêng vị thiền sư để trình bày những khó khăn và tiến bộ của mình. Lúc vào gặp thầy, tôi có nhắc đến cái đau nơi chân khi phải ngồi yên trong một thời gian dài. Thầy hỏi: "Cái đau ấy của ai? Nó có thật là của mình không? Nếu vậy thì bây giờ nó đâu rồi?" Lúc ấy tôi vẫn không thật sự hiểu được lời của thầy muốn nói. Vì cái đau ấy đối với tôi nó có thật vô cùng! Nó thật như bàn tay của tôi, mặt mày của tôi, da thịt của tôi vậy.

Nhưng Tôi là ai! Chắc bạn cũng biết những tế bào của ta đổi mới, chết đi trong mỗi giây, mỗi phút. Tóc, da ta. Máu, tim, phổi, gan của ta cũng đang được đổi mới luôn luôn. Mới đây tôi được nghe kể, toàn thể bộ xương cứng rắn của ta, chỉ vỏn vẹn trong nội vòng ba tháng, đã được đổi mới hoàn toàn. Quán chiếu điều ấy, thì cái đau năm xưa thật sự là của ai bạn nhỉ?

Dừng lại để thấy

Tôi thấy những cụm mây trắng nằm yên dưới lòng suối. Một chiếc lá ướt nằm rũ mục trên cạnh bờ. Khu rừng buổi trưa hình như vươn cao hẳn lên, những tàng cây lớn phủ che một bầu trời xanh thẫm, ánh nắng rơi qua kẽ lá loáng thoáng trên con đường đất nhỏ gập ghềnh. Không gian tĩnh lặng.

Bà Joko Beck nói rằng, mục đích của thiền tập là để luyện cho ta cách đối diện với khổ đau. Mục đích ấy không đến nỗi bi quan như bạn nghĩ đâu. Khổ đau tự nó không có một giá trị nào, nhưng nếu biết khéo sử dụng nó sẽ là một vị thầy giỏi. Vì chỉ khi nào ta có thể sẵn sàng đối diện với mọi kinh nghiệm của mình, cho dù là khổ đau hay hạnh phúc, chừng ấy ta mới biết sống. Thật sự mà sống. Khi chúng ta ngồi thiền tức là lúc ta đang tập đối diện trực tiếp với những gì đang xảy ra nơi ta ở giờ phút hiện tại. Ta ngồi yên đấy trong một hoàn cảnh tương đối vững vàng và an ổn. Bà Joko nói, trong những lúc ấy khổ đau có khi lại là một sự may mắn cho ta.

đây đa số trong các thành phố đều có nhiều công viên xanh lá, có những khu rừng nhỏ với ao hồ, với suối trong. Nhưng với sự bành trướng của tiện nghi, của tiến bộ, những khu rừng này dần dà trở nên hiếm hoi. Nơi đây đời sống vật chất tương đối quá đầy đủ. Sự giàu có của xứ sở này đôi khi lại làm cho người ta khó mà có thể cảm nhận được một niềm vui căn bản của sự sống, của một hiện hữu thuần túy. Việc ấy có vẻ như mâu thuẫn. Có những người Tây phương sau khi sang Ấn độ về kể lại rằng, giữa những cơ cực khổ đau của cuộc sống nghèo khổ, họ cũng nhiều khi bắt gặp những niềm hạnh phúc tuyệt vời của các người dân ở đấy. Khi bị bắt buộc lúc nào cũng phải đối diện với chuyện tử sanh, người ta sẽ biết trân quý cái giây phút hiện tại này. Vì vậy mà sự an ổn, những tiện nghi vật chất của mình cũng đôi khi có thể trở thành một chướng ngại cho việc nhìn thấy hạnh phúc của ta.

Các vị thiền sư cứ nhắc nhở ta rằng, hạnh phúc không thể nào tìm kiếm. Nhiều khi cũng vì mải mê tìm kiếm mà ta không thấy được nó. Vì khi ta đi tìm, ta sẽ tự tạo ra một ý niệm về vật mà mình muốn kiếm. Mà ta có thật sự biết hạnh phúc hình dạng ra sao không? Các bậc thiền sư khuyên ta hãy dừng lại, rồi một ngày hạnh phúc sẽ bắt gặp ta.

Tiếng hót chim bồ câu

Bà Joko Beck kể một câu chuyện như sau. Có một thiền sinh trong giờ trình pháp nói với bà, buổi sáng hôm ấy cô ta đang ngồi định tâm trong thiền đường. Trời mới tờ mờ sáng. Không gian vô cùng tĩnh lặng. Cánh cửa sổ thiền đường để mở cho không khí tươi mát buổi sáng lùa vào trong. Giữa không gian yên lặng ấy chợt cô nghe tiếng gáy của một con chim bồ câu trắng ngoài sân vọng vào. Ngay trong giây phút đó, hốt nhiên cô cảm thấy như bừng tỉnh dậy. Hiện hữu bỗng dưng thể nhập làm một. Lúc đó cô thấy không còn có cô, cũng không còn có tiếng hót của con bồ câu. Một giây phút nhiệm mầu. Kể đến đó cô dừng lại, chờ lời phê bình của bà. Bà Joko nhìn cô ta rồi đáp: "Tốt lắm! Kinh nghiệm của cô tốt lắm! Nhưng giả sử như lúc ấy thay vì nghe tiếng gáy của một con bồ câu, cô lại nghe tiếng của một người nào đó chỉ trích hay xúc phạm đến cô thì sao, kinh nghiệm của cô sẽ như thế nào? Cô thấy có gì khác biệt giữa âm thanh của tiếng chim hót và của một lời chỉ trích không?"

Lời của bà Joko có thể làm một công án để cho chúng ta quán chiếu. Sống trong cuộc đời, chúng ta có thật sự nghe, thấy hết tất cả những gì đang xảy ra chung quanh mình không! Hay qua một sự chọn lọc nào đó. Lưỡi gươm của ý niệm phân biệt có thể chia cắt thực tại ra làm muôn ngàn mảnh vụn.

Lá cây xanh tràn ngập

Như thế thì sự tu tập không phải là để ta đi tìm một sự an lạc, hạnh phúc nào hết. Chúng ta chẳng cần phải đi đâu cả. Vì thật ra chẳng có một nơi nào để ta đến. Hạnh phúc nằm ngay trong giây phút này, nếu ta không thấy được thì mãi mãi sẽ không bao giờ có thể thấy. Sự tu tập của ta chỉ là để nhắc cho ta nhận thức được điều ấy. Bạn hãy làm những việc nào cần làm bây giờ: đi dạo với một người bạn, giải quyết một vấn đề, uống một tách trà, dỗ dành một em bé, mở cửa sổ cho ánh trăng vào... Việc nào cũng tiềm chứa một khả năng an lạc hết. Nhưng đôi khi ta cần phải thường xuyên tự nhắc nhở mình điều ấy.

Nói đến ánh trăng, tôi nhớ đến ngài Đạo Nguyên, một thiền sư ở thế kỷ 13. Một đêm sáng trăng trên mặt nước, ngài có viết một bài haiku:

Nửa đêm. Im sóng.
Lặng gió. Khoang thuyền không,
Ánh trăng xanh tràn ngập.

Trưa nay trời tĩnh lặng. Có vài con chim nhỏ trốn nắng, thỉnh thoảng hót vang trong lùm cây cao. Không gian buổi trưa hanh hanh mùi hoa rừng, cỏ dại. Con đường đất vàng nhỏ loáng thoáng bóng lá cây xanh.

Rừng trưa. Im nắng.
Con đường nhỏ. Bầu trời không,
Ng
àn chiếc lá xanh chập chùng lòng suối vắng.

--ooOoo--

Giở Một Trang Kinh

Đêm cũng đã khuya, tôi mở cửa bước ra ngoài. Một mảnh trăng nhỏ trên cao, nằm yên trong lòng đêm. Bên ngọn đồi cỏ, thiền đường nằm im tĩnh lặng. Tôi xuống sân, băng ngang qua con đường trải đá nhỏ, đến một chiếc cầu bằng gỗ bắt ngang qua một dòng suối con. Tiếng nước chảy róc rách trong không gian tĩnh mịch nghe như tiếng thủy tinh. Tôi thấy ánh trăng mầu ngọc rơi vụn vỡ trên những viên sỏi nhỏ trong lòng suối.

Trời đêm tháng năm vẫn còn rất lạnh. Trên cao bầu trời nhiều mây cho những ngày mưa sắp tới. Không gian ban đêm ngoài miền quê thật tĩnh mặc. Tôi thấy viền nét của khu rừng nhỏ phía sau thiền đường in đậm trên nền trời sáng trăng. Đồi núi bao la yên tĩnh như dáng ngồi của một vị thiền sư.

Những ngày tu học ở đây tôi cảm thấy như mình tiếp xúc được với một cái gì an ổn và vững vàng. Giá như lúc này bạn có hỏi tôi hạnh phúc là gì, có lẽ tôi sẽ đáp rằng là ánh trăng trên cao, là cây cầu nhỏ tôi đang đi qua, là dòng suối con chảy róc rách, là ngôi thiền đường tĩnh lặng nằm dưới kia. Hạnh phúc đâu thể nào diễn đạt được bằng ngôn ngữ, chúng chỉ có thể kinh nghiệm mà thôi. Cũng như làm sao ta có thể bắt giữ được giây phút hiện tại này, phải không bạn?

Những bước chân đơn sơ

Cuộc sống hằng ngày của ta lúc nào cũng bận rộn! Nhất là ở xứ sở này, tôi chưa từng nghe ai nói là mình được rảnh rang bao giờ hết. Lúc nào ta cũng có một công việc gì đó đòi hỏi sự quan tâm của mình. Giá chi cuộc đời này có thể trở nên đơn giản hơn bạn nhỉ! Tôi nghĩ, cuộc sống này thì chắc có lẽ bao giờ cũng vẫn thế, sẽ có những con đường sỏi đá chênh vênh, gập ghềnh mà ta phải đi qua. Nhưng ta cũng có thể tập cho mình có những bước chân an ổn hơn, và đơn sơ hơn.

Bạn biết không, tôi nghĩ rằng tâm của các bậc thiền sư chắc là đơn sơ và giản dị lắm. Đơn sơ ở đây có nghĩa là không nhiều cũng không ít, chỉ vừa đầy đủ. Có dịp tiếp xúc với những vị thiền sư, tôi cảm nhận được tính đơn sơ ấy trong những bước đi, dáng ngồi, cử chỉ của các ngài. Vì nếu không đơn sơ, làm sao các ngài có thể hiểu được cái cảnh giới trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm, hoặc cái thế giới bất nhị mênh mông của Bát Nhã? Và lại có thể đem chúng thể nhập vào sự sống, việc ấy mới thật sự đòi hỏi một tâm hồn giản dị phi thường. Bạn biết không, hạnh phúc không bao giờ phải là những gì phức tạp và khó hiểu.

Tôi nghĩ rằng sự tu tập của ta là làm sao để có thể phát triển và thấy lại được cái bản tâm đơn sơ ấy của mình. Nó bình thường như hơi thở của ta. Đời sống có nhiều nỗi bận rộn và khổ đau, có những phiền muộn khiến người ta tìm đến sự tu tập như tìm một lối thoát, một giải pháp cho những khó khăn của họ. Nhưng có lẽ sau một thời gian, họ sẽ khám phá ra rằng, con đường tu tập của mình không bao giờ là một công trình tìm kiếm mà thật ra là một sự dừng lại. Ta dừng lại, trước hơn hết, là để nhìn, để nghe và để tiếp xúc với những gì là đẹp, là hạnh phúc. Sự an lạc của ta không thể có mặt ở một nơi nào khác hơn là bây giờ và ở đây. Cuộc đời của ta chỉ có thể là giây phút hiện tại này. Tất cả những thời gian khác chỉ là mộng tưởng mà thôi.

Buổi sáng nay chúng tôi đi thiền hành trên một con đường mòn nhỏ, có tiếng chim hót vang rừng. Trên đường, chúng tôi đi qua một hàng cây leo bên rừng có những đóa hoa màu trắng, cánh nhỏ như hoa dạ lý, tỏa hương thơm ngát không gian. Chúng ta đâu cần phải mất công đi tìm kiếm những cái đẹp, đáng yêu trên cuộc đời này làm gì bạn hở, vì chúng lúc nào cũng có mặt đâu đó ở cạnh bên. Hạnh phúc của ta cũng thế.

Tu tập nằm nơi sự sống

Ông Nasrudin là một nhà hiền triết của Hồi giáo. Ông thường làm những hành động như có vẻ khờ khạo để răn dạy người đời. Có một hôm, những người láng giềng thấy ông đem vụn bánh mì ra sân, rắc lên trên những vườn hoa trồng chung quanh nhà. Thấy vậy, họ tò mò sang hỏi: "Ông rải những vụn bánh mì chung quanh nhà để làm gì vậy?" Ông đáp: "Các ông biết không, ta làm thế để những con cọp và các loài thú dữ đừng bao giờ dám đến đây." Những người hàng xóm nghe ông nói lộ vẻ thắc mắc: "Nhưng ở thành phố nơi này thì làm gì mà có cọp hay thú dữ?" Nasrudin gật gù đắc ý, "Đó các ông thấy chưa, phương pháp của ta hiệu nghiệm vô cùng!"

Bạn biết không, chúng ta cũng đôi khi có một thái độ giống như ông Nasrudin vậy. Nhất là khi ta nghĩ rằng sự bận rộn và lo âu của mình sẽ giải quyết được những khó khăn, vấn đề trong cuộc đời. Có người sau khi tham dự một khóa tu cảm thấy rằng, cuộc đời mình dường như được thảnh thơi hơn. Những khó khăn của cuộc sống vẫn có mặt ở đó, nhưng chúng không còn là một vấn đề to tát như xưa. Có lẽ vì tâm họ đã được trở nên một chút đơn sơ. Nhưng không phải là ta cứ bỏ mặc mà không cần phải chú tâm đến để giải quyết những vấn đề của mình. Bạn hãy cứ lo chuyện thành đạt của mình đi, bạn hãy cứ học hành để trở thành những vị bác sĩ, kỹ sư đi, bạn hãy cứ cố gắng làm việc để được thăng quan tiến chức, hãy làm những gì bạn cần làm để có thể đem lại cho mình hạnh phúc. Nhưng bạn nên nhớ rằng, dẫu bạn có tài ba đến đâu, dẫu chương trình của bạn có rõ ràng đến đâu, cuộc đời này cũng chỉ có thể xảy ra trong bây giờ và ở đây. Và nếu ta không tìm thấy hạnh phúc, an lạc trong giây phút này, thì những thời gian khác cũng chỉ là hư ảo mà thôi.

Trời đêm cuối tháng năm vẫn còn thật lạnh. Nhất là ngoài vùng quê mênh mông. Tôi đi xuống thiền đường để lấy tập sách bỏ quên ban chiều. Đêm nay ánh trăng loáng thoáng tắm mát trong lòng suối nhỏ, những bước chân trên chiếc cầu gỗ tôi cảm thấy thật yên. Hạnh phúc cũng có thể chỉ là đơn sơ như vầy thôi bạn hở!

Giở một trang kinh

Đâu phải cuộc đời này không có khổ đau, nhưng ta cũng không nên sợ sệt chúng quá đáng. Khổ đau có thể làm chất liệu cho hạnh phúc của ta. Nhưng khổ đau và hạnh phúc thật ra cũng chỉ là những ý niệm, vì trong thực tại chỉ duy có kinh nghiệm mà thôi! Vì vậy mà cuộc đời này có lẽ sẽ được đẹp hơn, trong sáng hơn, nếu ta có thể sống với thực tại bằng một tâm hồn giản dị. Mặc dù ta không làm ngưng được dòng nước mắt của kẻ khác, nhưng ta có thể đem lại cho họ một nụ cười.

Tôi thích đi tham dự những khóa tu. Tôi để ý thấy rằng, những thiền sinh thường có khuynh hướng tìm kiếm một cái gì mới, một triết lý nào đó để tu tập. Tôi hy vọng họ sẽ đạt được những gì họ tìm kiếm. Đối với tôi, những khóa tu là cơ hội để tôi được gần gũi với những người có nội lực tu tập, với các vị thầy, để học cách đi đứng của các ngài, cách họ lật một tờ kinh, thỉnh một tiếng chuông, xỏ một chiếc dép, mở một cánh cửa... để tôi có thể thấy lại được mặt mũi thật của mình. Tôi sẽ không đặt một câu hỏi nào. Mỗi hành động của họ là một tiếng chuông tỉnh thức, nhắc nhở tôi biết tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong tôi và chung quanh tôi. Lối sống của các ngài là một bài pháp thoại.

Gối nhẹ mây đầu núi

Núi đồi ở vùng quê nằm thoai thoải thật xanh mát. Nơi đây có một hồ nước rộng, có rong phủ kín ven bờ. Buổi sáng mặt hồ loáng thoáng phản chiếu ánh nắng ban mai, đẹp như một bức tranh. Sáng nay chúng tôi đi thiền hành lên đồi. Rừng cây bên đường có mấy căn nhà gỗ cũ kỹ nằm khuất sau hàng cây. Trên đường về lại thiền đường, chúng tôi đi theo một con đường mòn nhỏ băng ngang qua rừng. Nắng trên cao xuyên qua những tàng lá rọi xuống thành những vũng sáng lớn.

Nắng mai tuy trong và đẹp nhưng không đủ ấm, chúng tôi ai cũng mặc thêm một chiếc áo khoác ngoài. Đi trên con đường mòn nhỏ nghe tiếng chim chóc hót vang rừng, tôi chợt nghĩ đến núi rừng Phương Bối xưa của thầy Nhất Hạnh, mà tôi đã được đọc qua sách vở. Phương Bối chắc chắn là đẹp và huyền bí hơn nơi đây ngàn lần. Tôi nhớ đến bài thơ thầy viết tặng thầy Thanh Từ khi giã từ nơi ấy:

Gối nhẹ mây đầu núi
Nghe gió thoảng hương tr
à
Thiền duyệt tâm bất động
Rừng cây dâng hương hoa
Một sáng ta thức dậy
Sương lam phủ mái nh
à
Hồn nhiên cười tiễn biệt
Chim chóc vang lời ca
Đời đi về muôn lối
Quan san mộng hải h
à
Chút lửa hồng bếp cũ
Ấm áp bóng chiều sa
Đời vô thường vô ngã
Người khẩu Phật tâm xà
Niềm tin còn gửi gắm
Ta vui lòng đi xa
Thế sự như đại mộng
Qu
ên tuế nguyệt ta đà
Tan biến dòng sinh tử
Duy còn Ngươi với Ta.

Chắc là nơi ấy phải đẹp lắm. Mỗi người chúng ta, có lẽ ai cũng phải cần một nơi chốn như thế, yên tịnh và đơn sơ, để dừng lại và trở về. Đó là một quê hương tâm linh để nuôi dưỡng hạnh phúc của ta. Chúng ta đâu cần phải nói gì nhiều, làm gì nhiều, chỉ cần đứng nhìn những dải mây giắt ngang núi, màu hồng cam của một buổi sáng ban mai, một bầu trời hoàng hôn mây tím, cũng là đủ lắm rồi. Hạnh phúc có thể là những gì thật đơn sơ, nhưng phải là chân thật. Sở dĩ chúng ta ai cũng yêu quý những cái đẹp, thanh tịnh, và chân thật, vì tự thể của ta là vậy!

Bạn biết không, tôi không bao giờ nghĩ rằng chúng ta thiếu thốn một phương pháp sống hạnh phúc. Bạn đừng nghĩ rằng, ta tham dự một khóa tu là chỉ để tìm học phương cách tu tập. Mặc dù đó có thể là một hình thức. Tôi nghĩ thời gian ấy là để ta tiếp xúc lại được với cái bản tâm đơn sơ của mình. Nơi đó có cất giữ một ước vọng sâu xa nhất của ta. Chính cái ước vọng ấy đã dẫn dắt ta đến đây, và thuở bé đã cho ta giấc mơ làm chàng dũng sĩ đi chuyển hóa cuộc đời. Thời gian ấy chắc cũng đã xa xôi lắm rồi, nhưng đừng bao giờ để cuộc đời chuyển hóa chàng dũng sĩ của mình bạn nhé!

Tôi nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ thật sự có hạnh phúc trừ khi mình tiếp xúc được với cái mộng ước sâu xa nhất ấy. Mộng ước đó là gì, thì chỉ có bạn mới biết được. Nó có mặt trong tự thể mỗi người chúng ta, và chỉ có thể nhận diện được trong giờ phút này mà thôi. Vì sự sống phải có mặt.

Đêm nay lòng đêm thanh tịnh, im lặng như khu rừng bên kia ngọn đồi. Tôi đứng yên trên chiếc cầu nhỏ. Bên dưới lòng suối, nước chảy róc rách qua những khe đá làm vỡ ánh trăng ra từng mảnh. Phải chi có bạn ở đây, tôi sẽ vớt một mảnh trăng tặng bạn để đem về nơi ấy. Chúng ta đâu cần phải nói với nhau một lời nào! Tôi vào thiền đường, thắp lên một nén hương thơm và đọc cho bạn nghe một trang kinh. Lời xưa sao đơn sơ quá bạn hở!

--ooOoo--

Ý Thức Sự Sống

Tháng mười hai trăng rằm mười sáu thật to. Trăng tròn đứng yên trên đầu hàng cây soi sáng con đường phủ đầy lá ướt vào nhà. Đang đêm mà tôi vẫn có thể thấy được bóng của những cây thông đổ dài trên sân cỏ. Cái lạnh mùa đông làm không gian có vẻ tịch nhiên, ánh trăng thêm vằng vặc. Trong văn chương thiền người ta thường nói nhiều đến trăng! Chắc có lẽ vì trăng bao giờ cũng an tĩnh, lặng lẽ sáng soi trong đêm tối.

Trời tháng mười hai không gian chuyển sang mùa lạnh. Con đường buổi sáng đầy khói sương mù. Mùa đông đêm dài. Vào những ngày rằm, trăng thật sáng. Có những lần ngồi thiền một mình trong phòng, lúc mở mắt ra tôi chợt nhìn thấy ánh trăng chiếu vào kệ sách ở góc phòng, tự bao giờ. Những lúc ấy tôi có cảm tưởng như mình có dịp đối diện với một sự trống không, thinh lặng bí mật nào đó. Một thứ tịch tĩnh nhưng không là cô đơn. Một hạnh phúc an nhiên.

Bận bịu cuộc đời

Hôm qua tôi có dịp ngồi nói chuyện với một người bạn. Chúng tôi nói chuyện trời đất, bốn mùa. Anh bạn bảo tôi rằng khoảng chừng vào năm mươi anh sẽ nhất định bỏ hết chuyện đời để lo tích cực tu hành. Anh nói bây giờ tuổi còn trẻ, việc đời bận bịu quá, anh khó có thể nào ngồi yên được! Nghe anh nói, tôi chợt nghĩ, tu hành có nghĩa là ngồi yên chăng? Mà nếu trong giờ phút này mình đã không ngồi yên được, thì hai, ba mươi năm nữa, lý do gì mà mình sẽ lại sẽ có thể ngồi yên được! Thời gian thì qua chóng lắm, hai hay ba mươi năm nữa cũng chẳng là lâu.

Ở Tây phương những thiền viện được xây trên các vùng đồi núi thật đẹp, có những bãi cỏ chạy tít chân trời, có rừng cây xanh mát. Ở bên đây người ta có rất nhiều phương tiện để tu tập. Trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, các vị thiền sư thường mở những khóa thiền kéo dài nhiều tuần để hướng dẫn các thiền sinh đến tu tập. Những khóa thiền này rất là tích cực, thiền sinh thường phải thức dậy thật sớm mỗi ngày vào lúc bốn, năm giờ sáng và chỉ đi ngủ sau mười giờ đêm. Chương trình được chia thành những buổi tọa thiền và đi kinh hành xen kẽ nhau. Thiền sinh được yêu cầu tuyệt đối giữ im lặng và lúc nào cũng phải luôn luôn theo dõi hơi thở và từng hành động của mình trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, đánh răng, rửa mặt...

Sau những khóa thiền tích cực nhiều ngày, ta có thể nhận thấy sức chánh niệm của mình tăng trưởng và sự an lạc cũng sâu xa. Nhưng có phải chuyện tu tập là từ bỏ hết những bận bịu của cuộc sống hằng ngày để được vĩnh viễn ngồi yên một mình? Hay như người bạn tôi nghĩ, cuộc đời có hai giai đoạn rõ rệt: trong cuộc đời và ra khỏi cuộc đời. Nếu mình cứ mặc tình lăn trôi trong phố chợ, rồi một buổi sáng ta sẽ có thể rũ bỏ hết bổn phận và nhẹ nhàng bước chân ra khỏi cuộc đời được sao!

Cuộc sống không biệt lập

Thật ra thì tôi không biết có ai có thể hoàn toàn độc lập tự mình tu, mà bất cần đến hoàn cảnh, xã hội chung quanh! Và tôi cũng không biết có ai có thể sống giữa cuộc đời này mà hoàn toàn không cần đến một nơi nương tựa, ẩn náo cho tâm hồn mình! Sự sống và sự tu tập của ta, bạn không thể nào ngăn chia ra làm hai được. An lạc và giải thoát đâu phải là một nơi chốn nào mình sẽ đi đến, mà nó chính là con đường mình đang đi bây giờ, phải không bạn! Tôi nhớ thầy Nhất Hạnh kể, có lần thầy viết bốn chữ nho "Dục An Tắc An" trên chụp đèn để trên bàn viết. Câu ấy có nghĩa là nếu mà mình muốn có an lạc thì mình sẽ được ngay an lạc trong giờ phút này, chứ không phải chờ đến ngày mai, hay hai ba mươi năm nữa!

Tôi nhớ những buổi sáng ở thiền viện, có tiếng chim hót, có ánh nắng ấm mặt trời chiếu tan sương mù bên ngoài cửa sổ. Sau một tuần thiền quán, thực tập chánh niệm, không gian chung quanh bỗng dưng trở nên tươi mới hơn. Vào ngày chót thầy khuyên chúng tôi đem sự hành thiền của mình trở về lại với đời sống. Tôi thường cho rằng ngồi thiền từ sáng đến tối là một chuyện khó làm, nhưng thật ra ngồi thiền cho đều đặn mỗi ngày mới là một chuyện khó bội phần hơn. Nhất là khi chung quanh ta có trăm ngàn việc đòi hỏi sự chú ý của mình. Khóa thiền nhiều ngày giúp tôi thấy được sự quan trọng và cần thiết của việc thực hành đều đặn mỗi ngày. Sự tu tập của ta không thể nào là một việc làm biệt lập với sự sống. Ngày bước chân vào thiền viện tôi ý thức được ngày mình sẽ bước chân trở về với những bận rộn của đời sống. Tôi phải biết đem những an lạc, tươi mát của tôi từ thiền viện vào với cuộc đời.

Ý thức được sự sống

Bạn có bao giờ thắc mắc, tự hỏi về ý nghĩa của cuộc đời là gì không? Bạn có thật sự biết mình mong muốn gì trong cuộc đời này không? Tiền bạc, danh vọng, sự nghiệp, nhàn hạ, sức khỏe chăng! Nếu bạn được ban cho cái mà mình nghĩ rằng mình thật sự muốn đó, bạn có nghĩ là rồi mình sẽ được hạnh phúc không? Ông Joseph Campell nói rằng điều mà chúng ta muốn, thật ra không phải là những điều tôi vừa kể, nhưng những việc ấy giúp ta kinh nghiệm và ý thức được sự sống của mình. Vì nhiều khi chúng ta đeo đuổi những ham muốn, tạo dựng sự nghiệp, hoặc đi tìm những cảm giác khác thường cũng không ngoài một mục đích ấy: để cảm nhận được rằng mình đang sống. Ông muốn nói, cái mà bạn thật sự muốn chính là: kinh nghiệm được sự sống này!

Mỗi năm tôi đều có dành ra một thời gian để đi tham dự các khóa tu. Những khóa tu học nhiều ngày rất là quan trọng. Nhưng sự tu tập thật sự bao giờ cũng là ở giờ phút hiện tại này đây. Tôi vẫn cố gắng tạo cho mình một thói quen là đi ngồi thiền vào mỗi tối. Sau một khóa thiền nhiều ngày thì thời gian nửa tiếng hay một tiếng mỗi ngày thật ra chẳng có là bao nhiêu. Nhưng nó rất là cần thiết. Nó giúp tôi dừng lại để nhìn, để nghe, để cảm nhận và ý thức được rằng chính sự sống của mình là quan trọng hơn cả.

Chánh niệm

Có lần có một người trong đại chúng hỏi thiền sư Nhất Hưu (Ikkyu), "Xin ngài viết cho tôi vài câu phương châm của trí tuệ cao tột nhất." Nhất Hưu cầm bút lông viết "Chánh niệm." Người đàn ông cầm lên đọc rồi nói, "Chỉ có vậy thôi sao? Ngài có thể viết thêm điều gì nữa không?" Nhất Hưu cầm bút viết thêm "Chánh niệm. Chánh niệm." Người đàn ông có vẻ hơi khó chịu, "Thật tôi không thấy những gì thầy mới viết đó là cao siêu hay minh triết ở chỗ nào hết!" Nhất Hưu lại cầm bút lên viết thêm "Chánh niệm. Chánh niệm. Chánh niệm." Người đàn ông bây giờ thì lộ vẻ hơi giận hỏi, "Ngài cứ viết 'Chánh niệm', mà ngài muốn nói nghĩa gì chứ?" Nhất Hưu nhìn người đàn ông và từ tốn đáp, "Chánh niệm có nghĩa là chánh niệm."

Chánh niệm có nghĩa là có ý thức được sự sống mình, biết rõ những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Những khóa tu học tích cực nhiều ngày giúp tôi nhận thấy được những gì đang xảy ra trong thân tôi, tâm tôi. Đối diện với những khổ đau của cuộc đời giúp tôi hiểu được những gì đang thật sự xảy ra chung quanh tôi. Cả hai phương diện ấy đều cần thiết cho sự giác ngộ, chúng giúp tôi ý thức được sự sống của chính mình. Chánh niệm nhỏ thì giác ngộ nhỏ. Chánh niệm lớn thì giác ngộ lớn. Đó là công phu tu tập của cả một đời người.

Trời mùa đông, đêm sáng trăng tĩnh lặng. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Cơn mưa mấy hôm trước khiến những lá vàng ướt trước sân nhà tràn ngập ánh trăng. Nén hương thơm tôi thắp trên bàn đã tắt. Tôi đi mở thêm chút sưởi cho ấm căn phòng.

-ooOoo-

Ðầu trang | 01| 02 | 03 | 04

 

Chân thành cám ơn chị Diệu Tịnh, NXB Sinh Thức, đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 12-2003)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated:
15-12-2003