BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Tìm hiểu PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

Tỳ kheo Hộ Pháp
PL 2546 - TL 2002


  

ÂN ÐỨC PHẬT THỨ BẢY

VII- Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam
(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa xặt-tha-đê-voá-má-nút-sa-năng).

Ðức Thế Tôn có ân đức Satthàdevamanussànam = Ðức Thiên Nhân Sư.

Ðức Thế Tôn là bậc Tôn Sư giáo huấn tất cả chúng sinh những pháp đem lại sự lợi ích, sự an lạc kiếp hiện tại; những pháp đem lại sự lợi ích, sự an lạc trong kiếp vị lai; và những pháp hành đem lại sự an lạc cao thượng Niết Bàn, tuỳ theo căn duyên trí tuệ của mỗi chúng sinh.

A) Sự Lợi Ích An Lạc Kiếp Hiện Tại

Ðức Thế Tôn giáo huấn chúng sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự an lạc trong kiếp hiện tại ( Anguttaranikàya-Atthakanipàta, kinh Dìghajànusutta.)

4 pháp là:

1- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp.
2- Biết giữ gìn của cải tài sản.
3- Có bạn lành, bạn tốt là bậc Thiện trí.
4- Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình.

Giải thích :

1- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp như thế nào?

Trong cuộc sống mỗi người nên chọn cho mình một nghề nghiệp lương thiện, không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn người [*] . Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp ấy, có trí tuệ hiểu biết chuyên môn trong nghề nghiệp để tạo ra nhiều của cải tài sản cho mình.

[*] Tránh 5 nghề: Nghề buôn bán vũ khí; nghề buôn bán người hoặc súc vật; nghề buôn bán rượu và các chất say; nghề buôn bán các loại thuốc độc sát hại chúng sinh; nghề sát sanh các loài thú để bán thịt.

2- Biết giữ gìn của cải tài sản như thế nào?

Của cải tài sản được tạo ra do đức tính siêng năng cần mẫn của mình, trong nghề nghiệp một cách hợp pháp. Người ấy nghĩ: "Ta nên giữ gìn cẩn thận những của cải tài sản này, tránh không để lửa cháy, nước ngập lụt cuốn trôi, bọn trộm cướp chiếm đoạt... giữ gìn của cải tài sản không bị hư mất".

3- Có bạn lành, bạn tốt là bậc Thiện trí như thế nào?

Muốn được lợi ích, tiến hoá, an lạc lâu dài, cần phải sống gần gũi, thân cận với bậc Thiện trí làm bạn thân thiết, để học hỏi những thiện pháp, ác pháp; để biết thiện pháp nên hành, ác pháp nên tránh xa; để noi gương tốt của bậc Thiện trí.

Bậc Thiện trí là người có đức tin chơn chánh; có giới trọn đủ; có đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng; thường hoan hỉ trong sự bố thí; có trí tuệ sáng suốt hiểu biết các pháp.

Nhờ gần gũi, thân cận bạn lành bạn tốt là bậc Thiện trí, nên mình mới có cơ hội học tập, để có đủ đức tin, có giới, học nhiều hiểu rộng, hoan hỉ trong sự bố thí, có trí tuệ hiểu biết các pháp.

4- Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình như thế nào?

Nhờ sống gần gũi, thân cận với bạn lành, bạn tốt là bậc Thiện trí, nên học hỏi hiểu biết được con đường làm cho phát triển của cải, và con đường làm của cải suy đồi [*] .

[*] Con đường làm của cải suy đồi: kết bạn với người ác, ăn chơi đàng điếm, uống rượu, chơi cờ bạc. Con đường làm cho phát triển của cải: kết bạn với bậc Thiện trí, không ăn chơi đàng điếm; không uống rượu, không chơi cờ bạc.

Biết sử dụng của cải có chừng mực trong cuộc sống là:

- Không nên phung phí của cải quá mức.
- Không nên hà tiện quá mức.

Nên nghĩ rằng: "Phần thu của ta hơn phần chi, hoặc phần chi của ta kém hơn phần thu".

Trong cuộc sống phần thu tiền bạc của cải nhiều hơn mức phần chi, thì tiền bạc của cải có phần dư dật, để dành lúc bịnh hoạn ốm đau, lúc tuổi cao tác lớn không tạo ra của cải được, nhờ có dư của cải tiền bạc thì cuộc sống mới được an lạc.

Ngược lại, phần chi tiền bạc, của cải nhiều hơn mức phần thu, thì tiền bạc, của cải bị thiếu thốn, nên cuộc sống lâm vào cảnh túng thiếu khổ cực.

Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình là lúc nào cũng "phần thu hơn phần chi".

Ðó là 4 pháp thực hành đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại.

B) Sự Lợi Ích An Lạc Những Kiếp Vị Lai

Ðức Thế Tôn giáo huấn chúng sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc những kiếp vị lai.

4 pháp là:

1- Có đức tin trọn đủ.
2- Có giới hạnh trong sạch và trọn đủ.
3- Có sự bố thí trọn đủ.
4- Có trí tuệ trọn đủ.

Giải thích

1- Có đức tin trọn đủ như thế nào?

Người Phật tử có đức tin trong sạch nơi 9 Ân Ðức Phật, 6 Ân Ðức Pháp, 9 Ân Ðức Tăng; tin nghiệp và quả của nghiệp trọn đủ.

Có đức tin trong sạch trọn đủ, nơi 9 Ân Ðức Phật rằng:

Ðức Thế Tôn,

- là bậc Arahán xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm thiên, nhân loại.

- là bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả đầu tiên trên toàn thế giới chúng sinh, trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác,

- là bậc có trọn đủ Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng,

- là bậc Thánh Thiện giáo huấn sự thật chân lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng sinh.

- là bậc Thông Suốt toàn thế giới.

- là bậc Vô Thượng Giáo Hoá chúng sinh.

- là bậc Thiên Nhơn Sư.

- là Ðức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, rồi giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ như Ngài.

- là bậc Cao Thượng nhất trong toàn thế giới chúng sinh, do Ngài tự mình chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác.

Và có đức tin trong sạch trọn đủ 6 Ân Ðức Pháp của Ðức Phật, 9 Ân Ðức Tăng, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật; và có đức tin trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp. Tin rằng: "nghiệp thiện cho quả an lạc; nghiệp ác cho quả khổ". Ngoài ra, không tin một ai có quyền lực cho quả an lạc hoặc cho quả khổ cho mình.

2- Có giới trong sạch và trọn đủ như thế nào?

Người Phật tử là bậc Xuất gia hoặc hàng tại gia cư sĩ, là người có giới hạnh trong sạch và trọn đủ theo phẩm hạnh của mình.

- Người cận sự Nam - Nữ có ngũ giới; bát giới... trong sạch và trọn đủ.
- Bậc Sa di có 10 Sa di giới, 10 pháp hoại, 10 pháp hành phạt, 75 điều học, 14 pháp hành...
- Bậc Tỳ khưu có 227 giới, 14 pháp hành, giới kể đầy đủ có 91.805.036.000 điều giới.

3- Sự bố thí trọn đủ như thế nào?

Người Phật tử có tâm từ, tâm bi tế độ, hoan hỉ trong sự bố thí tuỳ theo khả năng của mình, có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi bố thí; hoan hỉ đang khi bố thí; hoan hỉ sau khi đã bố thí xong.

Người Phật tử không nên có tâm bỏn xẻn keo kiệt trong của cải và sự hiểu biết của mình, có ít thì bố thí ít, có nhiều thì bố thí nhiều tuỳ theo khả năng, tuỳ theo người thọ thí. Người thí chủ nên có sự suy tư đúng đắn rằng: được làm phước thiện bố thí là một cơ hội tốt cho mình. Vì của cải, tiền bạc không phải là phước thiện (là quả của phước thiện) thuộc về của chung cho mọi người, nếu ta không biết sử dụng đem làm phước bố thí, qua thời gian, của cải ấy cũng bị hư mất, không tồn tại lâu dài được; nếu ta biết sử dụng của cải ấy đem bố thí, để biến thành phước thiện chắc chắn thuộc của riêng mình, sẽ cho quả báu an lạc nhiều kiếp, có tính bền vững lâu dài. Hơn nữa, cơ hội làm phước thiện bố thí chỉ có con người ở cõi Nam Thiện Bộ Châu (trái đất chúng ta đang sống) này mà thôi; các chúng sinh ở cõi khác khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước thiện bố thí. Vì vậy, chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội bố thí ấy.

4- Có trí tuệ trọn đủ như thế nào?

Người Phật tử nên có trí tuệ hợp trong mọi thiện pháp. Khi bố thí, thí chủ nên có đại thiện tâm hợp với trí tuệ đang khi bố thí. Cũng như vậy, hành giả nên có đại thiện tâm hợp với trí tuệ khi giữ giới, khi tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ.

Thật ra, trí tuệ để cho trọn đủ là trí tuệ thiền tuệ trong tam giới thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế.

Trí tuệ gọi là trọn đủ chính là trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới, đó là 4 Thánh Ðạo tuệ, đồng sanh trong 4 Thánh Ðạo tâm và 4 Thánh Quả tuệ đồng sanh trong 4 Thánh Quả tâm, có Niết Bàn làm đối tượng. Hành giả trở thành bậc Thánh nhân.

Ðó là 4 pháp thực hành sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho kiếp hiện tại, lẫn nhiều kiếp vị lai.

C) Sự Lợi Ích An Lạc Cao Thượng Niết Bàn

Ðức Thế Tôn có hai loại trí tuệ đặc biệt.

- Trí tuệ thấy rõ biết rõ căn duyên cao thấp của mỗi chúng sinh.
-
Trí tuệ thấy rõ biết rõ phiền não ngủ ngầm của mỗi chúng sinh.

Hai loại trí tuệ đặc biệt này chỉ có nơi Ðức Phật Toàn Giác mà thôi, còn các bậc Thánh Thanh Văn hoàn toàn không thể có (2 loại trí tuệ này). Cho nên, mỗi khi Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ chúng sinh nào, Ngài quán xét căn duyên của chúng sinh ấy. Chúng sinh nào đã từng tạo ba la mật nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, đã từng gặp Chư Phật ở quá khứ thọ ký rồi. Nay kiếp hiện tại này gặp Ðức Phật, Ngài thuyết pháp giáo huấn hợp với căn cơ và duyên lành của chúng sinh ấy. Sau khi lắng nghe Ðức Thế Tôn thuyết pháp xong, có số chúng sinh liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

* Có số chứng đắc đến Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhất Lai.

* Có số chứng đắc đến Bất Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai.

* Có số chứng đắc đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán.

Sự chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả này tuỳ theo 5 pháp chủ và ba la mật, nhất là trí tuệ ba la mật của mỗi chúng sinh.

Bốn bậc Thánh nhân này đều chứng đạt đến sự lợi ích, sự an lạc cao thượng Niết Bàn.

Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ chúng sinh không những nhân loại, chư thiên, phạm thiên được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài, mà còn có loài súc sanh cũng được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài nữa.

Như tích Mandukadevaputta (Chư Thiên Ếch - Khuddkanikàya, bộ Vimànavatthu chuyện Mandukadevaputta.), tóm lược như sau:

-- Một thuở nọ Ðức Thế Tôn ngự đến bờ hồ Gaggarà thuyết pháp tế độ dân chúng Campà, một con ếch nhảy lên bờ hồ nằm nghe giọng nói của Ðức Thế Tôn, với đức tin trong sạch nơi Ngài.

Khi ấy, một người chăn bò đứng đằng sau lắng nghe pháp, tay cầm cây nhọn vô ý cắm xuống đất đụng phải đầu con ếch đang nằm nghe giọng nói của Ðức Thế Tôn với đức tin trong sạch, con ếch chết ngay khi ấy. Sau khi chết, do thiện nghiệp ấy liền hoá sanh làm thiên nam ở cõi Tam thập tam thiên trong một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có chư thiên nữ hầu hạ. Vị thiên nam quán xét rằng: "Ta từ đâu đến hoá sanh làm thiên nam ở cõi Tam thập tam thiên này?".

Vị thiên nam nhớ lại tiền kiếp mình là loài ếch sống dưới hồ Gaggarà, lên bờ nằm lắng nghe giọng Ðức Phật thuyết pháp, với đức tin trong sạch; kiếp ếch ấy chết rồi, do nhờ thiện nghiệp ấy được hoá sanh làm thiên nam ở cõi trời này. Thấy rõ Ðức Thế Tôn đang còn thuyết pháp tại gần bờ hồ Gaggarà, vị thiên nam ếch quyết định hiện xuống hầu Ðức Phật, còn đem theo lâu đài bằng vàng cùng chư thiên nữ, có hào quang sáng ngời đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ðức Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn biết rõ, nhưng muốn cho các hàng đệ tử thấy rõ quả báu nghe pháp, nên Ngài hỏi:

"Ko me vandàti padàni,
iddhiyà yasasà jalam.
Abhikkantena vannena,
sabbà obhàsayam disà".

"Này thiên nam, ngươi là ai mà có thân hình xinh đẹp, hào quang sáng ngời toả ra khắp mọi hướng, có nhiều oai lực, nhiều chư thiên nữ hầu hạ đến đây đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Như Lai vậy?".

Chư thiên ếch bạch:

"Mandùko’ham pure asim,
udake vàrigocaro
Tava dhammam sunantassa,
avadhi vacchapàlako..."

"Kính bạch Ðức Thế Tôn, con là Manduka, mới kiếp trước đây, là con ếch nhỏ sanh và sống ở trong nước tại hồ này, con nhảy lên hồ đang nghe pháp của Ngài, chính tại nơi đây người chăn bò đứng nghe pháp vô ý cắm cây đụng đầu con, làm cho con chết.

Kính bạch Ðức Thế Tôn! Chỉ một khoảnh khắc, do nhờ đức tin trong sạch nơi giọng thuyết pháp của Ðức Thế Tôn, sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp ấy liền hoá sanh làm thiên nam ở cõi trời, như Ngài nhìn thấy, con có thân hình xinh đẹp, hào quang sáng ngời toả khắp mọi nơi,con hưởng sự an lạc, có nhiều oai lực, nhiều chư thiên nữ hầu hạ.

Kính bạch Ðức Phật Gotama! Những chúng sinh nào có thời gian lâu dài được nghe pháp của Ngài, những chúng sinh ấy chóng được chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và đạt đến Niết Bàn pháp giải thoát khổ".

Sau đó, Ðức Thế Tôn quán xét thấy các hàng đệ tử có đức tin trong sạch, nên Ngài thuyết pháp tế độ, vị thiên nam Manduka cùng với 84.000 chúng sinh gồm có chư thiên và nhân loại đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Vị thiên nam Manduka cùng chư thiên nữ cung kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn và chư Ðại Ðức Tăng xin phép trở về cõi trời.

Ðức Thế Tôn là bậc Tôn Sư không những dạy dỗ các bậc Xuất gia cũng như các hàng tại gia những pháp hành để chứng đạt đến pháp cao thượng, siêu tam giới pháp: 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, an lạc tuyệt đối, mà còn dạy dỗ những pháp hành để đem lại sự an lạc trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai, tuỳ theo căn duyên lành của mỗi chúng sinh.

Ví dụ: Ðức Phật dạy dỗ hàng tại gia phải biết chọn cho mình nghề nghiệp lương thiện, biết cách sử dụng của cải, biết nuôi mạng chơn chánh để đem lại sự an lạc trong kiếp sống hiện tại; dạy dỗ các bậc Xuất gia: Sa di, Tỳ khưu, chỉ dẫn từng li, từng tí; nào là mặc y, đi khất thực, thọ dụng vật thực đàng hoàng, chỗ ở sạch sẽ, dùng thuốc khi bệnh hoạn ốm đau; thậm chí còn chỉ dẫn khi tiểu tiện, đại tiện... Ðức Thế Tôn, bậc Tôn Sư dạy dỗ từ việc nhỏ cho đến việc lớn giải thoát khỏi biển khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Niệm Ân Ðức Satthàdevamanussànam

Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật "Ân Ðức Satthà- devamanussànam" này sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Satthàdevamanussànam..., Satthà-devamanussànam..., Satthàdevamanussànam...", hoặc câu Ân Ðức Satthàdevamanussànam: "Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam..., Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam..., Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam...", làm đối tượng thiền đ?nh...

(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).

-ooOoo-

ÂN ÐỨC PHẬT THỨ 8

VIII- Itipi so Bhagavà Buddho
(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Bút-thô).

Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Buddho = Ðức Phật.

Buddho nghĩa là đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh; rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành; cũng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả; Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả; Bất Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả; Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả tùy theo 5 pháp chủ và ba la mật của mỗi chúng sinh.

Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Buddho = Ðức Phật.

Ân Ðức "Sammàsambuddho" và Ân Ðức "Buddho" khác nhau như thế nào?

- Ân Ðức Sammàsambuddho nghĩa là tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh.

Ân Ðức Sammàsambuddho có 2 loại trí tuệ đặc biệt là:

- Trí tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế đầu tiên.
- Trí tuệ thành
(pativedhanàna).

- Ân Ðức Buddho nghĩa là không chỉ tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh, mà còn thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả; Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả; Bất Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả: Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả tùy theo 5 pháp chủ và ba la mật của mỗi chúng sinh.

Ân Ðức Buddho có 2 loại trí tuệ đặc biệt là:

* Trí tuệ của Bậc Toàn Giác (Sabbannutanàna),
* Trí tuệ giáo hóa chúng sinh
(desanànàna).

Ðối với Ðức Phật có trọn đủ các loại trí tuệ:

- 4 tuệ phân tích (patisambhidànàna).
- 6 tuệ cá biệt (asàdhàrananàna).
- 10 tuệ lực
(dasabalanàna)...

thành tựu cùng lúc với Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả.

Niệm Ân Ðức Buddho

Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật "Ân Ðức Buddho" này sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Buddho..., Buddho..., Buddho...", hoặc câu Ân Ðức Buddho: là "Itipi so Bhagavà Buddho..., Itipi so Bhagavà Buddho..., Itipi so Bhagavà Buddho...", làm đối tượng thiền định...

(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).

-ooOoo-

ÂN ÐỨC PHẬT THỨ CHÍN

IX- Itipi so Bhagavà
(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa).

Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Bhagavà.

Ân Ðức Bhagavà = Ðức Thế Tôn vô cùng cao thượng nhất trong toàn thế giới chúng sinh. Ân đức này, không phải phụ vương, mẫu hậu của Ngài đ?t tên, cũng không phải chư thiên, phạm thiên nào suy tôn Ngài.

Sự thật, Ân Ðức Bhagavà này là kết quả qua một quá trình tiến triển tạo 30 pháp hạnh ba la mật trải qua 3 thời kỳ của Ðức Chánh Ðẳng Giác Bồ Tát.

Ví dụ:

Trường hợp Ðức Phật Gotama trong thời đại chúng ta.

Tiền thân của Ðức Phật Gotama là Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt, nghĩa là trí tuệ có năng lực hơn cả đức tintinh tấn, đã tạo 30 pháp hạnh ba la mật trải qua 3 thời kỳ.

1- Thời kỳ phát nguyện trong tâm: Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt phát nguyện trong tâm, đồng thời tạo 30 pháp hạnh ba la mật: 10 pháp hạnh ba la mật bậc thường, 10 pháp hạnh ba la mật bậc trung, 10 pháp hạnh ba la mật bậc thượng suốt thời gian 7 a tăng kỳ (A tăng kỳ âm từ Pàli: asankheyya nghĩa là trải qua vô số kiếp trái đất).

2- Thời kỳ phát nguyện bằng lời: Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt đã trải qua 7 a tăng kỳ tạo 30 pháp hạnh ba la mật, có đủ năng lực phát nguyện bằng lời cho tất cả chúng sinh nghe biết nguyện vọng của mình, phát nguyện sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác trong thời vị lai, để tế độ chúng sinh, đồng thời tiếp tục tạo 30 pháp hạnh ba la mật thêm suốt 9 a tăng kỳ nữa.

Qua 2 thời kỳ này vẫn còn là Ðức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta), nghĩa là có thể thay đổi nguyện vọng của mình, trở thành Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác.

3- Thời kỳ được Ðức Phật thọ ký: Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt sau khi đã trải qua 2 thời kỳ: phát nguyện trong tâm và bằng lời, có đầy đủ năng lực mạnh, có thiện tâm bất thối chí, Ðức Bồ Tát có duyên lành đến hầu Ðức Phật.

Trường hợp vị đạo sĩ Sumedha (tiến thân của Ðức Phật Gotama) đến hầu Ðức Phật Dìpankara. Ðức Phật Dìpankara có Phật nhãn thông suốt vị lai, biết rõ nguyện vọng của vị đạo sĩ Bồ Tát Sumedha sẽ thành tựu được như ý, nên Ðức Phật Dìpankara thọ ký vị đạo sĩ rằng:

"Trong thời vị lai, còn 4 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất [*] nữa, vị đạo sĩ Bồ Tát Sumedha này sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác có danh hiệu Gotama".

[*] Ðại kiếp trái đất dịch từ danh từ Pàli "kappa": thời gian kiếp trái đất trải qua 4 a tăng kỳ thành-trụ-hoại-không.

Ngài đương nhiên trở thành Ðức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta), bất thoái chí, tiếp tục bồi bổ 30 pháp hạnh ba la mật trải qua 24 Ðức Phật thọ ký, Ðức Phật thọ ký cuối cùng là Ðức Phật Kassapa.

Ðức Bồ Tát kiếp chót là Thái tử Siddhattha xuất gia hành đạo tại đại cội Bồ Ðề vào canh chót ngày rằm tháng tư (âm lịch). Ngài đã chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh. Ðồng thời trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác nên có Ân Ðức Bhagavà = Ðức Thế Tôn.

Ân đức Bhagavà có 6 đức chính: Issariya, Dhamma, Yasa, Siri, Kàma, Payatta.

1- Thế nào gọi Issariya: Tự chủ?

Ðức Thế Tôn có tâm tự chủ các pháp tam giới và siêu tam giới.

- Tâm tự chủ pháp tam giới: như Ðức Thế Tôn hóa phép thần thông song hành (yamakapatihàriya) có 2 luồng nước và lửa phát xuất từ kim thân của Ngài; một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên trái, rồi thay đổi, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên trái ; cũng như vậy đến 2 mắt, 2 lỗ tai...

- Tâm tự chủ pháp siêu tam giới: Ðức Phật thuyết pháp xong, các hàng đệ tử đồng thanh nói lên lời hoan hỉ "Sàdhu - sàdhu" trong thời gian khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Ðức Thế Tôn có thể nhập Arahán Thánh Quả định để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Ðó gọi là Issariya = tự chủ.

2- Thế nào gọi là Dhamma: Chánh pháp?

Ðức Thế Tôn đã chứng đắc 9 siêu tam giới pháp đó là 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh, diệt đoạn tuyệt tất cả 1.500 loại phiền não, 108 loại tham ái, và tất cả mọi tiền khiên tật do tích lũy vô lượng kiếp quá khứ.

Ðó gọi là Dhamma = Chánh pháp.

3- Thế nào gọi là Yasa: Tiếng tốt lành?

Ân đức của Ðức Thế Tôn được lan truyền khắp tất cả mọi chúng sinh, khắp mọi nơi từ cõi người cho đến cõi long vương, đến chư thiên ở 6 cõi trời dục giới, đến chư phạm thiên ở 15 cõi trời sắc giới (trừ cõi Vô tưởng thiên). Và thậm chí ngay cả chư phạm thiên ở cõi vô sắc giới cũng niệm tưởng đến Ân Ðức Phật.

Ðó gọi là Yasa = Tiếng tốt lành.

4- Thế nào gọi là Siri: Hạnh phúc?

Kim thân của Ðức Thế Tôn có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của bậc thượng nhân, có hào quang mát mẻ phát ra từ kim thân của Ngài. Nên nhân loại, chư thiên, phạm thiên đến hầu đảnh lễ cúng dường đến Ðức Thế Tôn, lúc nào cũng cảm thấy hạnh phúc an lạc phát sanh hỉ lạc. Cho nên, những chúng sinh đến hầu Ðức Thế Tôn bao nhiêu lần cũng cảm thấy chưa đủ.

Ðó gọi là Siri - Hạnh phúc.

5- Thế nào gọi là Kàma: Nguyện ước thành tựu?

Ðức Thế Tôn khi còn là Ðức Bồ Tát Sumedha có nguyện ước:

- "Buddho bodheyyam". Như Lai tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế trở thành Ðức Phật rồi, sẽ giáo hóa chúng sinh cùng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế để trở thành bậc Thánh nhân (tự giác - giác tha).

Ðiều ước nguyện ấy đã thành tựu.

- "Mutto moceyyam". Như Lai tự mình giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài rồi, sẽ giáo huấn chúng sinh cũng được giải thoát cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài (tự độ - độ tha).

Ðiều nguyện ước ấy đã thành tựu.

- "Tinno tareyyam". Như Lai tự mình vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc rồi, sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ luân hồi đạt đến Niết Bàn an lạc (tự đáo - đáo tha).

Ðiều nguyện ước ấy đã thành tựu.

Ðó gọi là Kàma = nguyện ước thành tựu.

6- Thế nào gọi là Payatta: Tinh tấn không ngừng?

Hằng ngày Ðức Thế Tôn có sự tinh tấn không ngừng hành 5 phận sự gọi là Buddhakicca = phận sự của Ðức Phật (Bộ Chú giải Anguttaranikàya, phần Ekakanipata...)

Năm phận sự của Ðức Phật.

1- Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ (pure-bhattakicca).
2- Phận sự sau khi độ ngọ (pacchàbhattakicca).
3- Phận sự canh đầu đêm (pathamayàma).
4- Phận sự canh giữa đêm (majjhimayàma).
5- Phận sự canh chót đêm
(pacchimayàma).

Giải thích:

a) Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ như thế nào?

Mỗi buổi sáng đến giờ đi khất thực, đôi khi Ðức Phật ngự đi khất thực một mình để tế độ chúng sinh nào đó; đôi khi Ðức Phật cùng với chư Tỳ khưu Tăng ngự đi vào xóm, thành để khất thực. Khi Ðức Phật thọ thực xong, có số dân chúng thỉnh Ðức Phật thuyết pháp; có số xin quy y Tam bảo thọ trì ngũ giới... có số xin Ðức Phật cho phép xuất gia xong, Ðức Phật ngự trở về chùa.

b) Phận sự sau khi độ ngọ như thế nào?

Khi Ðức Phật ngự trở về chùa, rửa chân xong, đứng trên bục giảng, Ngài khuyên dạy chư Tỳ khưu:

"Bhikkhave appamàdena sampàdetha.
Dullabho Buddhuppàdo lokasmim.
Dullabho manussattapatilàbho.
Dullabhà khanasampatti.
Dullabhà pabbajjà
Dullabham saddhammassavanam".

"Này chư Tỳ khưu! Các con hãy nên cố gắng hoàn thành mọi phận sự Tứ thánh đế, bằng pháp không dễ duôi, tiến hành Tứ niệm xứ.

- Ðức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó.
- Ðược sanh làm người là một điều khó.
- Có được cơ hội hành phạm hạnh cao thượng là một điều khó.
- Ðược xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều khó.
-
Ðược nghe chánh pháp là một điều khó".

Ðó là những điều khó mà Ðức Phật hằng ngày thường khuyên dạy chư Tỳ khưu chớ nên dễ duôi!

Ðức Phật ngự vào cốc Gandhakuti, còn chư Tỳ khưu mỗi vị, mỗi nơi để tiến hành thiền định, hoặc tiến hành thiền tuệ.

c) Phận sự canh đầu đêm như thế nào?

Canh đầu: Ðức Phật giáo huấn chư Tỳ khưu, có số hỏi pháp, luật; có số xin thọ pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ; có số nghe pháp. Qua hết canh đầu, chư Tỳ khưu đảnh lễ Ðức Phật trở về chỗ ở của mình.

d) Phận sự canh giữa đêm như thế nào?

Canh giữa: Ðức Phật cho phép chư thiên, phạm thiên trong 10.000 thế giới đến hầu Ngài, đảnh lễ xong đứng một nơi hợp lẽ bạch hỏi pháp. Ðức Phật giảng giải những câu hỏi của chư thiên, phạm thiên xong, hết canh giữa, chư thiên, phạm thiên đảnh lễ Ðức Phật trở về cảnh giới của mình.

e) Phận sự canh chót đêm như thế nào?

Ðức Phật phân chia canh chót làm ba giai đoạn:

- Giai đoạn đầu: Ðức Phật đi kinh hành.
- Giai đoạn giữa: Ðức Phật ngự vào cốc Gandhakuti nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có trí nhớ trí tuệ biết mình thức dậy.
- Giai đoạn chót: Ðức Phật nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh trong 10.000 thế giới bằng Phật nhãn tuệ, xem xét chúng sinh nào đã có gieo duyên lành với Ngài, đã từng tạo ba la mật từ chư Phật quá khứ đến kiếp hiện tại này, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả, Ngài ngự đến để tế độ chúng sinh ấy, dầu ở gần hay xa; ở thế giới này hay thế giới khác.

Mỗi ngày mỗi đêm Ðức Thế Tôn hành trọn đủ 5 phận sự ròng rã suốt 45 năm, cho đến giây phút cuối cùng tịch diệt Niết Bàn.

Ân Ðức Bhagavà còn nhiều ý nghĩa khác.

Ðức Thế Tôn là bậc có trọn đủ các pháp của bậc Tôn Sư.

Do đó, Ngài có Ân Ðức Bhagavà = Ðức Thế Tôn.

Niệm Ân Ðức Bhagavà

Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Bhagavà" này sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng tâm tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Bhagavà..., Bhagavà..., Bhagavà...," hoặc câu Ân Ðức Bhagavà: "Itipi so Bhagavà..., Itipi so Bhagavà..., Itipi so Bhagavà...", làm đối tượng thiền định. Ðề mục Ân Ðức Phật này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc vi tế, rộng lớn vô lượng vô biên, vì vậy định tâm không thể an trú vào một điểm nào nhất định, nên chỉ có khả năng chứng đạt đến cận định, mà không thể chứng đạt đến an định, nên không thể chứng đắc được bậc thiền hữu sắc nào. Như vậy, cận định tâm vẫn còn thuộc dục giới đại thiện tâm.

(Phần còn lại giống Ân Ðức Araham).

* * *

Ðề mục niệm 9 Ân Ðức Phật là một đề mục thiền định vô cùng sâu sắc, vi tế, rộng lớn, vô lượng vô biên, vô tận. Do đó, định tâm không thể an trú một đ?i tượng nào nhất định để đạt đến an định, nên không thể chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, mà chỉ có thể đạt đến cận định mà thôi.

Tiến hành niệm Ân Ðức Phật này, hành giả tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, có lòng tôn kính sâu sắc nơi Ðức Phật, phát sanh hỉ lạc, thân tâm an tịnh, làm vắng lặng phiền não; có trí tuệ sáng suốt, phước thiện tăng trưởng, đặc biệt có thể tránh khỏi những điều rủi ro tai hại đến sanh mạng, cuộc sống thường được an lạc.

Hành giả thường niệm Ân Ðức Phật có cảm tưởng như gần gũi với Ðức Phật, nên tâm luôn luôn có sự hổ thẹnghê sợ mọi tội lỗi, nên giữ gìn giới hạnh trong sạch dễ dàng. Hành giả có giới hạnh trong sạch, có định tâm thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, sau khi chết hy vọng chắc chắn sẽ tái sanh nơi cõi thiện giới.

- Nếu tái sanh làm người sẽ là người có trí tuệ, có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ, ở địa vị cao quý.

- Nếu tái sanh làm chư thiên, sẽ là một thiên nam hoặc thiên nữ có nhiều oai lực, hào quang sáng ngời, hưởng sự an lạc đặc biệt hơn các chư thiên khác.

Hơn thế nữa, tái sanh kiếp nào, nếu gặp Ðức Phật hoặc giáo pháp của Ðức Phật sẽ dễ dàng phát sanh đức tin trong sạch nơi Tam bảo, lắng nghe chánh pháp, thực hành theo chánh pháp, dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

-ooOoo-

 Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05


Chân thành cám ơn Tỳ kheo Hộ Pháp, Thiền viện Viên Không, Bà Rịa, đã gửi tặng bản vi tính
(Bình Anson, tháng 04-2002)


[Trở về trang Thư Mục]
updated: 11-05-2002