Ananda - 09b

BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Cuộc đời Thánh tăng Ananda

Hellmuth Hecker - Nguyễn Ðiều soạn dịch (1991)


  

Chương IX-b

A Nan Ða lúc Phật gần nhập Niết Bàn (tt)

-ooOoo-

(tiếp theo Phần IX-a)

Ngày cuối cùng

Kế đó, đức Phật thân hành hương đến xứ Mallas, quê hương của một bộ tộc thuộc giai cấp chiến sĩ, nằm dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya). Vào thời đó, dường như biên giới của xứ Mallas cách không xa thành Xá Vệ (Savatthi) lắm; cho nên tin Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàrìputta) vừa viên tịch được loan truyền trong thành Xá Vệ đã thấu đến tai Phật.

Và tại xứ Mallas, một lãnh thổ kề cận với quê quán dòng họ Thích Ca (Sakyans) của đức Phật, mà đấng Bổn Sư bị ngã bệnh trầm trọng, sau khi dùng bữa ăn có "đĩa nấm'', do ông thợ bạc Cunda hiến dâng.

Thuật sự còn ghi rõ ràng: Khi đức Phật nhìn thấy "đĩa nấm'' ấy thì bảo ông Cunda chỉ dâng cho một mình Ngài mà thôi đừng phân phối ra các hàng Tăng chúng. Ngài khuyên ông Cunda hãy dâng cho họ những món khác. Ăn xong Phật còn dạy ông Cunda lập tức đem thức ăn còn lại của Ngài chôn đi, vì chỉ có một vị Phật mới tiêu hóa nổi những thực phẩm như thế.

(Lời dịch giả: Theo một số sử liệu khác thì thức ăn mà ông Cunda đã dâng cho Phật không phải là nấm, mà là một thứ thực phẩm dự trữ cho những người thợ săn đem bán. Quý độc giả có thể tìm hiểu thêm trong cuốn "The last days of the Buddha" -- Những ngày cuối cùng của đức Phật. Hoặc quý vị có thể đọc các bài khảo cứu của ông Arthur Waley, cũng viết về đề tài này, dựa trên những nguồn tài liệu chữ Trung Hoa. Ðặc biệt là các bài ông viết về "Những kệ ngôn cuối cùng'' của đức Phật, và một số bài ông viết về vinh danh Phật nhập Niết bàn.

Tuy nhiên dù theo tài liệu nào đi nữa, thì chúng ta cũng nhận thấy có một điểm chung: Ðó là một món ăn rất độc mà đức Phật phải dạy ông Cunda tuyệt đối không đem dâng cho ai khác. Ngài tránh cho họ sự nguy hiểm đến tánh mạng. Còn bản thân Ngài, vì Ngài sắp nhập Niết bàn, nên độc vật đối với Ngài không đặt thành vấn đề nữa.)

Lần ngã bệnh thứ hai này, đức Phật bị chứng tiêu chảy rất trầm trọng. Tuy sự công phá của độc trùng càng lúc càng tăng, nhưng tâm vô ký của một vị Phật quá mạnh. Ngài lúc nào cũng thản nhiên, thanh tịnh, và minh mẫn tiếp tục cuộc hành trình...

Người ta có cảm tưởng như lúc đó không phải họ đang chứng kiến cảnh xác thân bệnh hoạn làm cho đức Phật đau đớn, mà họ đang chứng kiến cử chỉ siêu phàm của một vị Phật trực diện, quan sát cái khổ trong thân Ngài, như quan sát một cái gì "tầm thường'', "xa lạ'', chẳng liên quan gì đến Ngài cả. Thật là một hành động phi thường!

Lúc ấy thân thể Phật rất yếu và lời nói rất nhỏ. Ngài bảo A Nan Ða trải y Tăng Già Lê cho Ngài nằm và hãy tìm nước cho Ngài uống. Nhưng A Nan Ða chần chờ vì chưa tìm ra một giòng sông để có nước trong hơn, chứ nước trong giòng suối bên cạnh đang đục ngầu, bởi một đoàn năm trăm xe bò mới băng qua.

Khi đức Phật bảo múc nước đến lần thứ ba thì A Nan Ða vâng lời. Cực chẳng đã, ông phải lấy bát bước lại bên giòng suối, thì lạ thay nước nơi đó liền trở nên trong suốt. A Nan Ða vô cùng kinh cảm, vội múc nước lên dâng Phật. Và ông chợt nhớ rằng đây không phải là lần thứ nhất ông chứng kiến một phép lạ như thế, mà trước đó không bao lâu, ông đã từng múc nước đục trong một cái giếng sập, đem dâng Phật thì nước trở thành trong.

Một hôm đức Phật gặp Hoàng tử xứ Mallas tên Pukkasa, một tông đồ của giáo chủ Alàra Kàlàma (một trong sáu trường phái mạnh nhất thuở bấy giờ). Hoàng tử này đã từng theo học đạo với Alàra Kàlàma trước đó trong vòng mười lăm năm.

Vừa trông thấy đức Phật, Hoàng tử Pukkusa đã mở đầu câu chuyện bằng những lời tán dương:

- Thật là quá ngạc nhiên! Thật là đáng khâm phục vẻ thanh tịnh và cao thượng của những hàng Sa môn đã thoát ly gia đình; đời sống an lạc phạm hạnh.

Rồi Hoàng tử tiếp:

- Chính thầy của bản vương tử (ám chỉ Alàra Kàlàmara) một lần nọ cũng đã nhập định một cách vững chắc đến độ không nghe thấy năm trăm cỗ xe đi ngamg qua, mà tiếng động đó có thể đánh thức một người ngủ say cũng phải thức dậy.

Vì biết Hoàng tử Pukkusa có nhân duyên sắp được Ngài tiếp độ, nên sau khi nghe thế đức Phật bèn hỏi rằng:

- Này Pukkusa! Nếu so sánh giữa sự định tâm của Alàra Kàlàma với sự định tâm của một Sa môn nhập thiền giữa cơn mưa bão sấm chớp vang trời, gió cuốn rừng cây, nước trôi như thác, thì sự nhập định của vị nào khó hơn?

- Bạch Ðức Cồ Ðàm! Ðịnh lực của Sa môn dắc thiền khó làm hơn.

Nhân đó mà đức Phật mới thuật lại, không phải để cho Hoàng tử Pukkusa nghe, mà còn để cho tất cả hàng đệ tử biết: Ngài đã nhiều lần Nhập định trong cảnh mưa bão, sấm sét như thế! Nhất là Phật còn kể thêm rằng: Khi xả thiền Ngài mới hay có rất nhiều trâu bò, súc vật, cùng dân quê bất hạnh đã bị sấm sét giết chết.

Pukkusa vốn là người rất tin vào quyền lực nên đức Phật đã dùng Thiền lực dể "thuyết phuc'' như thế. Kết quả vị Hoàng tử này đã tự động xin quy y và xác nhận Phật giáo là con đường chắc chắn đưa dến thật pháp và cứu cánh giải thoát. Ðây là người đệ tử cuối cùng của đức Phật.

Hoàng tử Pukkusa sau đó đã dâng đến đức Phật hai lá y màu hoàng kim. Ðức Thế Tôn nhận một y rồi bảo ông đem tặng lá y kia cho A Nan Ða. A Nan Ða khi nhận lá y ấy, ngẫu nhiên nhìn lên thân Phật thì thấy màu da đức Bổn Sư chợt sáng lạn vô cùng, ông ngạc nhiên liền nói:

- Bạch Ðức Thế Tôn! Sao kỳ lạ quá! Làn da của đức Thế Tôn tự nhiên óng ả vô cùng, có thể nói là còn đẹp hơn lá vàng y này.

Ðức Phật chậm rãi trả lời rằng:

- Này A Nan Ða! Có hai trường hợp mà dung mạo của một vị Phật bỗng sáng lạn khác thường. Ðó là khi Phật Ðắc Ðạo và khi Ngài sắp nhập Niết bàn. Trong trường hợp thứ hai Như Lai sẽ Nhập Diệt vào nữa đêm ngày mai.

A Nan Ða nghe Phật tuyên bố câu ấy thì rụng rời chân tay. Vì suốt ngày hôm đó, và trọn ngày hôm trước Phật tuy ở trong tình trạng bệnh hoạn, nhưng Ðức Thế Tôn lúc nào cũng tươi tỉnh, tinh anh. Phật hết nói pháp cho người này nghe thì Ngài tiếp dộ cho người khác, nên A Nan Ða hy vọng, do lòng từ bi Phật còn kéo dài sự sống.

Bây giờ nghe Phật bảo trước giờ nhập Niết bàn, ông đâm ra hốt hoảng. A Nan Ða tự động thầm trách người thợ bạc Cunda đã vô tình dâng thức ăn độc địa đến Ðức Bổn Sư.

Ðức Phật biết rõ điều đó, nên sau khi Ngài tìm một ao nước tắm rửa sạch sẽ trở lại, bèn nói với A Nan Ða rằng:

- Này A Nan Ða! Ông không nên thầm trách người thợ bạc Cunda! Nhất là đừng hiểu lầm đức Phật phải tịch chỉ vì đã thọ một bữa ăn của thí chủ ấy. Trên thực tế: Có hai lần cúng dường quý báu nhất là cúng dường đầu tiên khi Bồ Tát Thành Ðạo, và lần cúng dường sau cùng trước khi Phật Nhập Niết Bàn. Cunda nhờ phúc đức cúng dường ấy mà ông sẽ được kéo dài tuổi thọ, của cải cùng danh thơm cũng sẽ gia tăng. Và khi mãn kiếp, ông sẽ gặt hái quả lành tái sinh vào cõi trời.

Phần thứ năm của kinh Ðại Niết Bàn bắt đầu từ lúc đức Phật yêu cầu A Nan Ða dìu đưa ngài đến vùng Kusinàrà, vào tận trong công viên của vua Mallas. Khi đến nơi đức Phật bảo A Nan Ða nâng Ngài nằm dài trên một phiến đá, quay đầu về hướng Bắc, giữa hai cây Song Long Thọ giao cành. Mặc dù lúc ấy không phải mùa hoa, nhưng những búp Song Long Thọ bỗng nhiên hiện ra, nở rộ, và rải vô số nhụy thơm trên thân thể đức Phật.

Sử chép: Hoa Mạn Ðà La (Mandarava) cũng tự nhiên từ không trung rơi xuống, chen cách với hoa Song Long Thọ, mang theo hương thơm thiên giới và nhạc trời.

(Một học giả Nhật Bổn, ông D.T SUZUKI đã so sánh cái hình ảnh thanh thoát, siêu phàm trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời một vị Phật với đoạn chót của chúa Ky Tô, đã làm cho mọi người thấy rằng: Trong cả hai trường hợp, hai vị Giáo Chủ đã để lại những tấm gương sáng cho các thế hệ tin tưởng nơi họ sau này).

An ngọa xong, đức Phật liền nhập định và các đệ tử kề cận thay phiên nhau hầu Phật. Khi đến lượt Trưởng lão Upavàna đứng quạt hầu thì đức Phật bỗng dạy:

- Này các Sa môn! Sự cúng dường bằng hầu hạ, bằng thiên nhạc, bằng hương thơm, bằng tràng hoa, hay bằng bất cứ vật dụng gì quý nhất trên thế gian đến Như Lai, cũng không bằng cúng dường bằng cái phẩm hạnh Thực hành đúng cái giáo lý giải thoát mà Như Lai đã dạy! Nghĩa là Sa môn nào sống đúng theo đạo cao thượng của đức Phật là Sa môn ấy cúng dường Như Lai ấy một cách thành thật.

Ðoạn đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Upavàna đứng sang một bên. A Nan Ða lấy làm lạ, liền bạch Phật hỏi lý do, thì đươc Phật trả lời rằng:

- Này A Nan Ða! Bởi vì có vô số chư Thiên đến từ bốn phương tám hướng để chiêm bái toàn diện bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhưng Sa môn Upavàna đã đứng trước mặt Phật Như Lai, và tâm lực của vị Sa môn này làm giảm hào quang của chư Thiên nên họ không dám đến gần để chiêm bái. Bởi vậy Như Lai mới yêu cầu ông đứng sang một bên!

Tuy A Nan Ða đang buồn, nhưng nghe nói có chư Thiên (vô hình) đến thăm liền bị kinh cảm, tò mò hỏi Phật về họ, thì cũng được đức Bổn Sư mô tả tóm tắt:

- Này A Nan Ða! Các hàng chư Thiên ấy, hạng nào còn dục căn thì khóc than thảm thiết, kể lể rằng: Ðức Phật đã xuất hiện trên thế gian từ 45 năm qua, mà bây giờ họ mới được thấy nhục thân lần đầu, và cũng là lần chót! Còn hạng chư Thiên nào đến từ hai cõi Sắc giới và Vô sắc giới, thì thần diện tỏ ra thanh tịnh hơn, nhưng vẻ luyến tiếc sắp mất một vị Phật của họ, cũng không che dấu được.

Ðoạn đức Phật; nhân nghe các hàng chư Thiên bàn bạc với nhau rằng sau khi đâng Toàn Giác Tịch Diệt rồi thì mỗi ngày (tương đương với 100 năm của thế gian), từ thiên giới họ sẽ xuống cõi người để chiêm bái những nơi có liên quan đến đức Phật, một lần, Phật bèn nói với A Nan Ða:

- Này A Nan Ða! Có bốn chỗ động tâm, tượng trưng cho hình ảnh của Phật Tổ Thích Ca là:

1. Ðịa điểm Ðản Sinh, trong vườn Lumbini (gần thành Xá Vệ: Sàvatthi).

2. Ðịa điểm Thành Ðạo, ven rừng tuyết lãnh Uruvela (gần sông Ni Liên).

3. Ðịa điểm Nói Pháp Lần Ðầu Tiên (Chuyển pháp luân) trong vườn Lộc Dã, gần thành Benares.

4. Và địa điểm nhập Niết Bàn, (trong vườn Song Long Thọ Mallas gần thành Kusinàrà).

Về sau nếu có kẻ thiện tâm, tưởng nhớ đến đức Phật thì họ cứ tìm đến chiêm bái một trong bốn (hay cả bốn) địa điểm này. Và quả phúc cho sự chiêm bái ấy sẽ đưa kẻ thành tâm, sau khi hết tuổi thọ, được sinh vào cõi trời. Ðặc biệt là những ai từ phương xa lặn lội đến Thánh tích sẽ hưởng quả phúc nhãn tiền: thân thể khỏe mạnh, tật bệnh tiêu trừ.

Một điều đáng chú ý là tất cả bốn Thánh địa này đều nằm trong một ngôi vườn, cạnh rừng, gần thành phố, chứ không ở trong thành phố. Ðể cho những đoàn hành hương trong tương lai có thể tìm thăm các "dấu tích'' của đức Phật tại những nơi vừa thanh tịnh (gần rừng), vừa dễ lui tới (gần thành phố).

Lúc đó A Nan Ða như sực nhớ ra một diều gì liền buồn bã hỏi Phật:

''Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Phật Tịch Diệt, thì một Tỳ khưu Tăng phải đối xử với các đệ tử nữ lưu như thế nào?

- Này A Nan Ða! Như Lai đã dạy kỹ việc đó đến ông rồi. (Mời quý độc giả hãy đọc lại đoạn trước, chương số 5).

A Nan Ða lại rưng rưng nước mắt hỏi tiếp:

- Bạch đức Thế Tôn! Nhưng khi đức Bổn Sư đã An Tịnh Vô Dư Niết Bàn, thì chúng đệ tử sẽ gìn giữ nhục thân của Ngài ra làm sao?

- Này A Nan Ða! Ðó là nhiệm vụ của các hàng cư sĩ, các bậc vua chúa. Còn bổn phận của chư Tỳ khưu Tăng là phải tinh tấn phát triển tâm linh, bất thối trên con đường giải thoát.

A Nan Ða nài nỉ:

- Bạch Ðức Thế Tôn! Nhưng chúng đệ tử muốn biết thánh ý của Phật về tang lễ dành cho nhục thân của một bậc Chánh Biến Tri?

Hào quang trên mình Phật chợt sáng rực, rồi Ngài trả lời:

- Này A Nan Ða! Nhục thân của một Chánh Biến Tri sẽ được hỏa táng theo vương lễ. Và tro tàng cũng như Xá lợi sẽ được các vua chúa chia đều để dựng tháp phụng thờ.

- Này A Nan Ða! Có bốn hạng người trên thế gian xứng đáng để cho chư Thiên và nhân loại bảo vệ hài cốt trong các bảo tháp (Cetiyas) là: Phật Toàn Giác (Sammà Sambuddha), Phật Ðộc Giác (Paccekabuddha), A La Hán (Arahatta) và Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkavatti Ràjà). Ai có duyên lành lễ bái hài cốt của bốn hạng người ấy sẽ được phúc đức vô cùng.

(Lời phụ chú của dịch giả: Các danh hiệu như: Toàn Giác, Chánh Ðẳng Chánh Giác, Chánh Biến Tri, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Thế Gian Giải, Minh Hạnh Túc, Vô Thượng Sĩ, Ứng Cúng, Thiện Thệ, Thế Tôn v.v... đều chỉ để ám chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tức là một vị Phật, từ vô lượng kiếp làm Bồ Tát, đã có hạnh nguyện đem giáo lý độ đời).

Còn danh hiệu Ðộc Giác ám chỉ một bậc Giải Thoát đã tự tu, tự độ, kiếp chót không cần nghe pháp của ai và cũng không dạy pháp đến kẻ khác.

A La Hán Phật thường được gọi là Thinh Văn Giác, tức những đệ tử đã đắc đạo Bất Lai (không còn luân hồi nữa), của một vị Phật Toàn Giác.

Cả ba loại danh hiệu vừa kể trên đều dành cho các bậc thoát ly gia đình, đắc đạo Vô Thường, Giải Thoát. Riêng danh hiệu Chuyển Luân Thánh Vương ám chỉ một hiền nhân sống trong cung vàng điện ngọc.

Ấy là một vị Hoàng đế ơn ích vô lượng, lấy đức lành để trị dân, và không ngừng phổ biến thiện pháp ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Các vị Chuyển Luân Thành Vương hầu hết đã đắc quả Thánh, kể từ bậc Tu Ðà Hườn (Sotàpattimagga) trở lên.

Theo phong tục cổ Ấn Ðộ, nhất là thời Phật còn tại thế, thì những vĩ nhân sau khi nhắm mắt, hài cốt của họ thường được tôn thờ trong những mộ thất (Stupas), hay trong những bảo tháp (Cetiyas).

Riêng đối với những cổ Chuyển Luân Thánh Vương thì di cốt còn được an trí cùng với những tùy vật rất quý giá, đồng thời phía trên mộ tháp luôn luôn có một chiếc lọng.

(Người ta gọi hài cốt của đức Phật là Ngọc Xá Lợi và ngày nay các hàng Phật tử có thể đến chiêm bái Ngọc Xá Lợi tại những tháp thờ lớn, hay những Bảo tàng viện Trung ương trong các nước Phật giáo).

Khi ấy A Nan Ða vì quá khổ não, bước ra phía sau chỗ Phật nằm, ôm một cây cột, than khóc thảm thiết. A Nan Ða khóc vì biết rằng quả Thánh A La Hán ông chưa đạt được, lòng ông còn dục vọng, mà đức Bổn Sư, người duy nhất có thể giúp ông vượt qua biển khổ lại sắp sửa nhập vào Niết bàn.

Với một tâm lý còn ít nhiều phàm tình,A Nan Ða chắc tự hỏi rằng: ''kết quả của 25 năm trường hầu Phật là như vậy sao?''.

Hình ảnh một A Nan Ða ngồi khóc ấy, về sau này thường được miêu tả bằng nghệ thuật hội họa, hay bằng những nét điêu khắc của văn hóa Phật giáo, tại những trung tâm chiêm bái lịch sử, khiến cho các nhà khảo cứu quốc tế liên tưởng đến hình ảnh các tông đồ của Jésus Christe gục đầu bên thập tự giá, sau Phật khoảng 600 năm.

Phật không thấy A Nan Ða bên cạnh, bèn hỏi nguyên do, rồi cho người gọi ông đến mà dạy rằng:

- Này A Nan Ða! Ông chớ nên buồn khổ! Như Lai đã từng giảng cho ông nghe nhiều lần rồi: Mọi vật đều vô thường. Có cái gì đã sinh ra, thay đổi theo thời gian, mà không có ngày suy tàn, tiêu hoại ?

- Này A Nan Ða ! Ðức tính hầu Phật của ông từ 25 năm qua, vốn vui vẻ, giản dị, nhạy cảm và nghiêm túc. Với một sự phục vụ hết lòng kính yêu đức Phật, bằng hành động, bằng lời nói, cũng như bằng ý nghĩ, ông đã tạo cho mình một công đức vô lượng, to lớn hơn bất kỳ ai trong giáo pháp của Như Lai. Tại sao ông không nhớ đến những công đức ấy để mà thỏa mãn, để mà tin tưởng quả giải thoát sẽ đến trong kiếp này.

- Này A Nan Ða ! Như Lai khuyên ông hãy tinh tấn thêm chút nữa, thì các bợn nhơ trong tâm ông sẽ được tẩy sạch.

Rồi để làm tăng thêm niềm tin vào công đức của A Nan Ða, đức Phật bèn thuật lại trong một tiền kiếp xa xưa, khi Bồ Tát tiền thân Phật Thích Ca được đức Chánh Ðẳng Chánh Giác quá khứ thọ ký, thì tiền thân A Nan Ða, cũng được thọ ký rằng ông sẽ chứng quả Giải Thoát trong giáo pháp của vị Phật tương lai ( Theo Jataka 307: Túc Sinh truyện số 307). Ðây là lần tiên đoán thứ nhất. Và giờ đây, trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật lại tiên đoán ''A Nan Ða sẽ Giải Thoát'' lần thứ hai.

Sau khi an ủi và khuyến khích A Nan Ða xong, đức Thế Tôn quay sang các hàng Tỳ khưu Tăng, và một lần nữa Phật lại thớt lên những lời khen ngợi có liên quan đến A Nan Ða rằng:

- Không phải chỉ riêng Như Lai mới có một đệ tử thân cận xứng đáng, mà chư Phật trong quá khứ, và chư Phật trong kiếp vị lai cũng có những đệ tử như thế. Sự bặt thiệp của A Nan Ða đối với các hàng Phật tử cũng rất đáng ngưỡng mộ. Mỗi lần Tăng chúng tụ họp để nghe ông nói pháp là mỗi lần tất cả đều thỏa mãn, vui mừng, và họ cứ muốn nghe ông nói pháp thêm nữa. A Nan Ða là một Sa môn mà tiếng tốt đã đạt được đến mức ít ai sánh bằng! Ngoài ông ra, chỉ có một vị Chuyển Luân Thanh Vương mới có uy tín cỡ đó.

Không riêng gì trong kinh Ðại Niết Bàn mà trong các kinh khác, chúng ta cũng thấy cách khuyến khích và dạy dỗ A Nan Ða này của Ðức Phật: Một mặt đức Thế Tôn khen ngợi những đức tánh có thật của A Nan Ða trước các hàng Tăng chúng, đặc biệt là những ai yêu mến ông. Mặt khác Phật nhắc nhở ông hãy cố gắng đoạn trừ những phiền não cuối cùng.

Nhân được đức Bổn Sư khen ngợi như thế tâm tư A Nan Ða chợt lóe lên một niềm hy vọng: Ông đề nghị đức Phật không nên Nhập Diệt trong vườn Mallas, dưới hai cây Song Long Thọ, mà Ngài nên di chuyển đến Nhập Niết Bàn trong một thủ đô lớn hơn, như Sàvatthy (Xá Vệ), Ràjagaha (Vương Xá), Kosambi hay Bènares chẳng hạn!

Riêng Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), thủ đô quê quán của đức Phật, là nơi thích hợp và gần xứ Mallas nhất, nhưng A Nan Ða không đề nghị là vì thủ đô này vừa mới bị xâm lăng, cướp phá và thiêu hủy bởi một Hoàng tử con vua Pasenady.

Còn một thủ đô khác là Vesaly, A Nan Ða cũng không nhắc đến, vì trước đó không bao lâu, đức Phật đã tuyên bố là Ngài sẽ không quay lại thành phố này.

A Nan Ða sở dĩ đề nghị đức Phật nên nhập Niết Bàn trong một thành phố lớn, vì ông nghĩ rằng ở đó lễ Trà Tỳ có thể được tổ chức long trọng hơn và số người đến dự gieo duyên lành với Phật lần cuối cùng cũng sẽ được đông đảo hơn.

Nhưng đức Phật nằm yên trên giường sắp Nhập Diệt, hiểu rõ thâm tâm của ông, đã cắt nghĩa cho A Nan Ða đầy đủ lý lẽ và nhân duyên tại sao Ngài chọn thành Kusinara để làm nơi an nghỉ cuối cùng.

Sau khi A Nan Ða nghe xong lời Phật dạy thì ông mới biết chỗ Phật nằm, chuẩn bị Nhập Diệt, là nơi chứa đầy nhân duyên nhất số là đức Phật, trong một kiếp xa xưa, đã xin làm một vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Maha Sudassana, đã đem ân đức cai trị vùng này, làm cho bá tánh hưng thịnh, hạnh phúc một thời.

Tiền thân đức Phật khi hết tuổi thọ đã tái đầu thai làm Chuyển Luân Thánh Vương ở đó ít nhất là sáu lần, và kiếp chót này ngài đến viên tịch nơi đây là lần thứ bảy.

Tuy sự lộng lẫy và thái bình về vật chất của vương quốc thời xa xưa ấy bây giờ đã tiêu hoại, biến mất và trở thành số không. Nhưng đối với một bậc thông rõ quá khứ, vị lai thì ý nghĩa và giá trị lịch sử của nó vẫn còn. Mặt khác, căn cứ theo Pháp Bảo của chư Phật thì nó còn là địa điểm chứng minh rõ ràng chân lý vô thường: một vương quốc đã được thịnh trị qua ân đức của pháp lành đến sáu đời Chuyển Luân Thánh Vương, mà còn bị mai một như thế, thử hỏi những xã hội chỉ biết làm lành năm, bãy năm hay một thế hệ nào đó, thì ỷ lại vào đâu để có thể dễ duôi, tưởng phước lành của mình sẽ không cạn?

Trong Tôn Túc Kinh (Theragàthà) còn có một câu kệ nổi tiếng về vương quốc xa xưa ấy như sau:

''Hạnh phúc lành tuy cũng là sự thật!
Nhưng đã vì tái hợp, tất ly tan,
Vạn vật sinh ra vốn để suy tàn.
Dẫu Thánh pháp củng có ngày biến mất,
Ðược,thất,suy,hưng,ảo hình vật chất,
Với thời gian, tất cả chỉ là phù du.
Chấm dứt duyên sinh ấy phá ngục tù,
Tâm cực lạc là tâm ngoài sinh thú''

- Thoát dịch theo câu số 1159 trong Theragàthà. Nội dung của bài kệ nói trên cũng được diễn tả dưới thể văn xuôi trong các kinh: Trường A Hàm (Digha Nikàya 16.6,17),Tạp A Hàm (Samyutta Nikàya) 15-20/S:1.11/S:6.15/S:9.6) và Túc Sinh truyện (Jàtaka 307).

Câu chuyện vị Chuyển Luân Thánh Vương Mahà Sudassana (tiền thân Phật) có thể xem là câu chuyện cuối cùng mà đức Phật kể cho A Nan Ða nghe.

Sau đó đức Thế Tôn bảo A Nan Ða loan tin Phật sắp nhập Niết Bàn và mời dân chúng Mallas trong thành phố Kusinàrà cu hội, dể họ có thể chiêm bái Phật lần chót.

Trong số những người đến thăm vĩnh biệt đức Phật ấy, có một đạo sĩ du phương tên là Subhadda, đang dừng chân tại thành Kusinara, và nghe tin Phật sắp Niết Bàn, ông cũng đến thăm.

Subhadda vốn có một vấn đề nan giải trong tâm, nên ông nghỉ rằng ''Rất khó mà gặp một vị Phật, vậy ta nên mau đem việc bí ẩn này hỏi Phật, nhờ Ngài giải rằng, kẻo chậm trễ thì sẽ muộn''.

Khi Subhadda yêu cầu A Nan Ða để ông đến gần Phật, thì A Nan Ða từ chối, nói rằng: ''Hãy để cho đức Thế Tôn an nghỉ, không ai được quấy rầy!''. A Nan Ða từ chối đến ba lần như vậy, nào biết rằng hành động của ông đã trái với lòng từ bi của đức Phật.

Ðức Thế Tôn nghe A Nan Ða từ chối dến lần thứ ba như thế, liền dạy:

- Này A Nan Ða! Ông hãy để cho du sĩ Subhadda đến gần Như Lai đi, vì ông ấy có một vấn đề thắc mắc trong tâm, mà không thể nào giải tỏa. Ông đến để cầu được soi sáng, chứ không phải để quấy rầy Như Lai đâu''.

Subhadda vô cùng mừng rỡ, liền tiến lên, chắp tay, bạch với Phật rằng:

- Thưa đức Cô Ðàm! Có một vấn đề mà du sĩ này hằng thắc mắc là: làm sao để nhận ra chân lý, khi các giáo chủ hiện nay đều thuyết giảng những điều trái nghịch nhau, mà biện luận của vị nào nghe củng thông suốt?

Ðức Phật thanh tịnh trả lời:

- Này Subhadda! Hãy nghe pháp bảo của Như Lai, rồi ông sẽ rõ: Khi một người hành động cao thượng, nhất là sống theo Bát Chánh Ðạo, thì người ấy sẽ tự mình nhận thấy giáo lý thoát tục, tự mình tìm thấy bốn quả lành của bậc xuất gia. Rồi khi một Sa môn càng tinh tấn trong phạm hạnh thì họ càng thấy rõ Thánh quả hiện dần.

- Này Subhadda! Nhu Lai đem phép lành ban bố trên thế gian đã bốn mươi lăm năm qua, đây là lần đầu tiên ông mới được nghe! và ngoài pháp lành ấy, ông không thể nào tìm ra chân lý ở nơi khác.

Lời dạy ngắn ngủi ấy của Phật, quả đủ để cho Subhadda, (cũng như trường hợp của Hoàng tử Pukkasa),thể nhận được Chánh Pháp một cách sâu sắc, Subhadda, sau đó đã xin quy y Phật, và tình nguyện gia nhập cộng đồng Tăng lữ. nhưng theo luật lệ mà đức Thế Tôn đã chế định: Một đạo sĩ du phương muốn gia nhập Phật giáo phải ''thử hạnh'' trong vòng bốn tháng. Trong thời gian này, nếu họ đổi ý, họ có thể trở về môn phái cũ của họ.

Subhadda liền vui mừng vâng lời. Ông còn nói: ''...Nếu Phật bảo ông tập tành trong vòng bốn năm, rồi mới được chính thức thừa nhận vào Giáo Hội, ông cũng sẵn sàng làm''.

Trước sự quyết tâm ấy, đức Phật đã cho phép Subhadda quy y, và đây là người môn đệ sau cùng của đức Toàn Giác. Có một điều đáng ca ngợi là vị đệ tử cuối cùng này, chẳng bao lâu sau đó, đã đắc quả A La Hán (Arahatta: Bất Lai).

Phần thứ sáu (mà cũng là phần chót) của kinh Ðại Niết Bàn chứa đựng những lời di huấn tối hậu của đức Phật. Chúng ta có thể liệt kê như sau:

Thứ nhất chư Tỳ khưu Tăng chớ nên nghĩ rằng: Sau khi đức Thế Tôn Tịch Diệt, cộng đồng đệ tử sẽ không còn ai là thầy. Bởi vì toàn thể kinh và luật của đức Bổn Sư để lại, chính sẽ là tiêu chuẩn hướng đạo, được xem như một vị thầy. Những gì Ðức Phật đã thuyết ra, hoặc đã chế định để ngăn ngừa phàm nhân phạm điều tội lỗi, sau đó sẽ được các đệ tử tôn túc kết tập thành văn bản, có hệ thống, hầu ổn định nền tảng giáo lý đức Phật cho những thế hệ tương lai.

Thứ hai, sau khi Phật nhập Niết bàn, chư Tỳ khưu Tăng không được gọi nhau một cách vô trật tự: Chẳng hạn như không được gọi nhau bằng ''đạo hữu'', mà phải tôn trọng thứ bậc, tuổi tác, phải gọi nhau bằng những tiếng ''Thưa Ngài'' và tự xưng là ''bần đạo'', nếu mình lớn hơn hay ngang hàng, phải tự xưng là tiểu đệ, nếu mình nhỏ hơn hết. Trong tiếng Pali, một vị Tỳ khưu nhỏ hạ gọi một Tỳ khưu lớn hạ là Bhante ("Hạ'' là công hạnh an cư kiết hạ, một đơn vị thâm niên trong Phật giáo).

Luật lệ này được gìn giữ mãi đến ngày nay, như một truyền thống tượng trưng cho sự hòa hợp và tôn trọng đức hạnh trong các hàng Tăng lữ. Một vị niên trưởng trong Phật giáo phải luôn luôn giử nết gương mẫu. Và những Tỳ khưu trẻ tuổi hằng ý thức rằng ''Tôn trọng các bậc đạo hạnh tôn túc trong Giáo Hội là tôn trọng Ðức Phật''.

Thứ ba, Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng, sau khi Ngài Tịch Diệt, có thể hủy bỏ những luật lệ nhỏ nhặt, ít quan trọng, chỉ liên quan đến phép xã giao và nghi lễ trong thời trước, mà không còn lưu hành trong thời sau. Tuy nhiên sự hủy bỏ này phải do đại Hội đồng Tăng chúng hợp lại rồi quyết định, chứ không do một cá nhân phổ biến.

Sự hủy bỏ đó cũng không được làm giảm hiệu lực của những luật lệ chính trong đời sống phạm hạnh. Trường hợp nếu có Sa môn nào, không muốn hủy bỏ những điều luật ''vụn vặt'' mà cố gắng giữ đủ, thì Sa môn ấy không phạm tội bất tuân Giáo Hội.

Thứ tư, Phật lưu lại lời dạy sau cùng để phạt một Tỳ khưu bất phục thiện nặng hơn, dành cho thẩm quyền Giáo Hội. Ðiềy này có liên quan đến Tỳ khưu Channa, một tu sĩ cứng đầu không chịu sửa hạnh kiểm xấu. Khi Ananda hỏi Phật cách thi hành điều luật ấy, thì được trả lời như sau:

- Không ai được tiếp xúc, nói chuyện, khuyên nhủ hay dạy dỗ Channa nữa! Cứ để mặc ông làm chi thì làm, và đừng chú ý đến ông gì cả.

Sau đó, Phật cũng không quên dạy cho A Nan Ða những phương pháp căn bản, để đối ngoại trong những ngày sắp tới, khi ông tiếp xúc với đủ mọi hạng người. Rồi đức Thế Tôn quay qua hỏi toàn thể đệ tử rằng:

- Này chư Tỳ khưu! Cho đến nay, các ông còn điều gì thắc mắc có liên quan đến hành động và giáo thuyết của đức Giác Ngộ không? Nhất là thắc mắc về nội dung cùng ý nghỉa của Pháp Bảo. Thắc mắc cề tổ chức Giáo Hội? Và trên hết là thắc mắc về những pháp môn mà các ông đang dùng để tụ tập? Bốn loại thắc mắc ấy nếu có, các ông nên nêu ra để được giải tỏa, khi Như Lai còn tại thế, kẻo về sau các ông sẽ lấy làm tiếc lúc Như Lai đã Nhập Diệt rồi.

Sau khi Phật gạn hỏi đến ba lần, mà toàn thể đệ tử hiện diện đều im lặng, thì A Nan Ða vội nói:

- Thật là đáng mừng, chư Tỳ khưu Tăng ở đây không ai thắc mắc điều gì cả.

Ðức Phật liền chữa lời ông:

- Này A Nan Ða! Khi ông thốt câu ấy, ông có chắc chắn là ở đây thực sự chẳng có Tỳ khưu nào còn những điều thắc mắc chăng? Ông nên biết rằng, rất có thể có nhiều thắc mắc, mà một Tỳ khưu không muốn nói ra! Hoặc cũng có thể có quá nhiều câu hỏi mà họ không biết phải nêu vấn đề nào trước?

Những lòi dạy ấy của Ðức Phật đến A Nan Ða chứng tỏ rằng Ngài biết rõ phẩm hạnh của năm trăm đệ tử đang có mặt nơi đó, chỉ có một thiểu số đắc quả Thánh tử Tu Ðà Hườn trở lên, thì không còn hoài nghi trong Phật Giáo. Nhưng hơn phân nửa còn lại, Thành tâm chưa được nảy nở! Và lời dạy ấy của Ngài cũng vốn để nhắc nhở A Nan Ða chớ nên chớ nên dùng sự suy đoán thông thường căn cứ theo bên ngoài của mình, mà ấn định trình độ hiểu biết của cộng đồng Tăng chúng.

Rồi một lần cuối cùng, Ðức Thế Tôn lại quay sang năm trăm người đệ tử để thốt những lời vĩnh biệt và chúc lành như sau:

- Giờ đây! Này chư Tỳ khưu! Như Lai nhắc lại lần chót rằng bản chất của mọi vật có hình dạng là sẽ tiêu hoại, tan rã. Các ông hãy cố gắng thêm lên! Ðừng để Giác Tâm bị che mờ, bị bao phủ, bị cầm tù bởi xác thân ngũ uẩn này.

Nói xong những lời tối hậu ấy, đức Phật liền nhập Ðịnh: Ngài bắt đầu từ Nhất thiền, Nhị thiền, Tam thiền, rồi Tứ thiền... để bước vào thiền Vô sắc. Chỉ trong chốc lát, tâm Phật đã trụ vững trong bậc an định Vô sở hữu xứ. Ngài không còn khái niệm, hay cảm giác gì về ngũ căn và thế gian nữa.

Phật an định như thế qua năm khắc đồng hồ (khoảng 2 giờ) mà phong lực (ám chỉ hơi thở) trong thân thể của Ngài chưa gián đoạn, nên Ngài tiến lên các cõi thiền cao hơn là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, Thức Vô Biên Xứ, rồi Không Vô Biên Xứ.

Trong bốn cõi thiền Vô sắc vừa kể: Khi an trụ ở hai bậc đầu, đức Phật không còn Tâm sở vi tế nữa, và khi an trụ ở hai bậc sau, Tâm vương(hay tâm Phật) tự động trở nên vô lượng vô thượng, và vô cực, chẳng những vượt qua vạn pháp và vũ trụ hạn chế, mà Ngài còn vượt qua vạn pháp vũ trụ vô hạn chế nữa.

Trong khi dức Phật đang nhập định trên thạch sàng(tảng đá dùng làm giường) thì A Nan Ða thỉnh thoảng hỏi sư huynh Anuruddha, một người anh em ruột của ông, và cũng là một Thiền sư có định lực siêu dẳng, gần bằng đức Phật, xem đức Thế Tôn đã nhập Niết Bàn chưa? A Nan Ða đã gọi Anuruddha là đại huynh( bhante), mặc dù hai anh em cùng xuất gia, thọ giời trong một ngày.

Anuruddha lúc ấy đang ngồi thiền, sử dung định luật để theo dõi đức Phật. Thỉnh thoảng ông xả thiền để thông báo cho chư tông đồ biết tình trạng tâm linh của đức Bổn Sư ra sao.

Khi Anuruddha nghe A Nan Ða hỏi câu: ''Bạch sư huynh! Ðức Thế Tôn đã Nhập Diệt chưa?'', thì ông trả lời rằng:

- Này sư đệ A Nan Ða! Tâm Phật còn đang ở cõi Thiền Không Vô Biên Xứ, tức là Phẩm Vô Sinh đã kết quả trong Ngài, còn Phẩm Bất Diệt mới vừa ''chớm nở''. Nghĩa là đức Phật đang kề sát Niết Bàn, chứ chưa Viên Tịch.

Anuruddha trả lời như vậy, vì ông đã sử dụng tối đa thiền lực của mình. Ông chỉ có thể "theo Phật'' lên tới cõi thiền thứ tám rồi dừng ở đó, chứ không thể ''đi cao'' hơn nữa.

Về phần đức Phật, sự nhập Niết bàn của Ngài quả là một điều kỳ diệu. Phật không bắt buộc mình phải chết. Ngài cũng không cố ý kéo dài sự sống. Khi tâm Phật vượt qua Tam giới, lên đến cõi Thiền thứ chín rồi, mà hơi thở trong nhục thân chưa tắt, một số tế bào của xác thịt còn hoạt động, thì Ngài quay lại cõi thiền thứ nhất, để cho chúng nó (những tế bào còn "sống") được cân hữu với tâm linh mà hoạt động. Rồi Ngài lần lượt tiến lên các cõi thiền cao hơn, từ thứ hai, thứ ba, thứ tư..v..v cho đến tuyệt đích nhập Niết Bàn. Cứ như thế mà Phật tuần tự, hết lên rồi xuống, hết xuống rồi lên, chờ đợi các cơ quan trong thân thể của Ngài hết tuổi thọ, tự động chấm dứt.

Và khi nhóm tế bào cuối cùng trong thân thể Phật ngưng hoạt động, thì thiền tâm Phật đang ở cõi định thứ tư, Ngài ung dung phủi sạch bụi luân hồi, tiến lên các bậc thiền cao hơn thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín rồi Nhập Diệt!

Lần chót này Anuruddha cũng tận dụng thiền định theo Phật, để làm bổn phận thông tin. Nhưng khi ông lên đến cuối bậc thiền thứ tám, thì ông không còn tiếp xúc với thần quang của đức Phật nữa. Anuruddha thận trọng quay lại các bậc thiền thấp hơn để "tim'' Phật, nhưng chẳng thấy Ngài đâu cả, ông mới biết chắc rằng đức Bổn Sư đã Nhập Niết bàn.

Lúc ấy vào đúng nữa đêm, ngày trăng tròn tháng tư âm lịch! Vầng trăng khuya đã chênh chếch về phương Tây.

Khi toàn thân của đức Phật thực sự ngừng hoạt động thì...bỗng nhiên quả đất rung rinh, bầu khí quyển chuyển động, sấm sét nổi lên trên không trung. Ðúng như lời tiên đoán của dấng Toàn Giác!

Phạm Thiên Sahampati, bậc đã đắc quả Bất Lai mà cũng là vị trời đã yêu cầu Phật thuyết pháp lần đầu tiên thế gian(trước đó 45 năm) liền xuất hiện để cung dường Phật bằng câu kệ:

''Luật vô thường hằng chi phối vạn vật,
Ngay cả một vị Phật còn không tránh khỏi
''.

Vua trời Ðế Thích cũng hiện ra hình và lập lại ý nghĩa một câu Phật ngôn mà vua đã từng nghe rằng:

''Tử sinh là cõi phù du,
Sinh còn, tử mất, công phu luân hồi
''.

Vua trời Ðế Thích vốn là một vị tiên đã đắc quả Nhập Lưu, nên ông thuộc lòng rất nhiều Phật ngôn.

Người thứ ba cúng dường Phật là Anuruddha. Ông ứng khẩu mấy câu kệ ngôn như sau:

''Thanh tịnh thay là giờ Nhập Diệt,
Ðấng từ bi thanh khiết vô lường.
Buồn vui, sướng khổ không còn,
Vượt ra tam giới mười phương Niết bàn''
.

Nhưng A Nan Ða thì âu sầu, than tiếc, nói:

''Còn chi khi đã mất thầy,
Cõi trần vô nghĩa, thân này vô duyên''.

Sau cùng là toàn thể năm trăm Tỳ khưu đệ tử Phật, vì hầu hết chưa đắc quả Thánh, tâm tư còn chứa rất nhiều phàm tình, ái dục, nên họ dồng loạt khóc lóc, thương tiếc đức Phật một cách thảm thiết, chẳng kém gì A Nan Ða.

Trưởng lão Anuruddha thấy vậy liền khuyên nhủ, nhưng chư phàm Tăng chẳng vơi được nỗi buồn. Anuruddha là một thiền sư có Thần nhãn, nên ông thấy tất cả các hàng thiên chúng cũng đang than khóc. Ông bèn nhắc lại lời dạy của Phật về định luật vô thường cho chư phàm Tăng nghe. Ðoạn để lôi kéo sự chú ý của họ, hầu giảm bớt nỗi đau đớn, ông cũng nói cho các phàm Tăng biết hiện có đông đảo chư Thiên đang lui tới lễ bái nhục thân đức Phật...

Suốt đêm hôm đó Anuruddha nói chuyện không ngưng về Pháp Bảo với mọi người. Ðối với A Nan Ða, suốt 45 năm trường, sống đời sống xuất gia, và cùng có chung một Bổn Sư, ông chưa bao giờ có những giây phút "đàm đạo'' thân thiết, cởi mở, như trong trường hợp này. A Nan Ða quả thật vô cùng khổ não và cần sự an ủi của ông, một người anh ruột, mà cũng là một đạo huynh trong đời sống phạm hạnh.

Khi trời gần sáng thì Anuruddha bảo A Nan Ða mang tin tức Phật đã nhập Niết Bàn, truyền rao trong quần chúng Mallas. Giữa giới những đại tông đồ của đức Phật, hiện diện nơi ấy, Anuruddha được coi là bậc huynh trưởng, nên đương nhiên ông phải gánh vác nhiệm vụ đôn đốc mọi việc.

Sau đó, dân chúng Mallas từ thành Kusinàrà đã mang đến đầy đủ, mọi vật dụng cần thiết, để tổ chức đại lễ Trà Tỳ hỏa táng cho đức Phật. Họ đã tuyển chọn những tràng hoa trầm hương, gỗ quý, vải đẹp và thảm mầu tốt nhất, để thiết lễ trong bảy ngày. Những điệu nhạc dành an táng các hàng vua chúa và những vũ khúc cao trọng nhất cũng được họ trình diễn cúng dường Phật.

Ngoài ra, dân chúng Mallas, trong khi nói chuyện họ chỉ bàn bạc với nhau xung quanh những vấn đề có liên quan đến đức Phật mà thôi. Chẳng hạn như họ nói: ''Chúng ta ngưỡng mộ đức Phật thì phải tổ chức lễ hỏa táng thật trọng thể. Chứ buồn bã hối tiếc có ích gì?''. Một số người thì nói: ''Suốt cuộc lễ Trà Tỳ này, chúng ta phải thường trực dâng hương bằng vũ điệu, và đọc kinh bằng kệ ngâm, để nói lên sự cung kính của chúng ta''. Còn có những người trí thức thì bảo rằng: ''Ðức Phật xuất hiện trên đời là mang ơn ích lại cho toàn thể chúng sanh! Ngài đã đi khắp đó đây cả nước Ấn Ðộ để ban bố pháp Giải Thoát, và bây giờ Viên Tịch, Ngài còn để lại cho chúng ta, cộng đồng Tăng lữ gương mẫu,và tám muôn bốn ngàn Phật ngôn là quý báu lắm rồi!''

Vào ngày thứ bảy thì họ dựng lên một dàn hỏa để thiêu thân đức Phật.

Khi ấy, đại Trưởng lão Ca Diếp (Mahà Kassapa.Người trước đó không có mặt trong cuộc hành trình cuối cùng của đức Phật, bỗng được linh tính xui khiến, dẫn một đoàn tùy tùng hướng về thành phố Kusinàrà. Ðại Ca Diếp lúc gặp một tu sĩ Lão Thể hỏi tin tức về đức Phật thỉ mới hay đức Bổn Sư đã nhập Niết Bàn cách đó 7 ngày.

Một lần nữa, người ta lại chứng kiến cảnh những phàm Tăng trong đoàn tùy tùng của Ðại Ca Diếp bắt đầu khóc lóc, thương tiếc đức Phật.

Tuy nhiên, trong số này, có một Tỳ khưu mới xuất gia, lòng trần chưa dứt, không muốn khép mình vào giới luật nhà Phật. Ông hay tin ấy liền tỏ ra mừng rỡ, tuyên bố rằng: ''Như vậy là từ nay về sau không còn ai coi chừng hạnh kiểm nữa, chúng ta có thể làm bất cứ chuyện gì chúng ta thích. Ðức Thế Tôn qua đời chính là một sự giải thoát cho chúng ta!''.

Và điềm báo hiệu Phật giáo sẽ suy đồi cũng bắt đầu từ đó. Tỳ khưu này là tượng trưng của khát vọng, của sân hận và của si mê tăm tối. Tỳ khưu ấy đã bị chư phàm Tăng trong đoàn tùy tùng của Trưởng lão Ðại Ca Diếp gọi là ''kẻ phá hoại'' quả thật không sai!

Khi vua và toàn dân Mallas được mời mỗi người đốt một que diêm bỏ lên giàn thiêu nhục thân đức Phật thì tất cả đều vụt tắt, không có ai có thể mồi lửa được. Anuruddha biết rõ nguyên nhân bèn tuyên bố rằng: ''Hiện tượng ấy là do chư thiên đã ngăn cản,vì cuộc lễ hỏa táng phải được Trưởng lảo Ðại Ca Diếp chủ tọa.

Anurudda nói mây câu ấy không bao lâu thì đoàn tăng lũ đo Ðại Ca Diếp dẫn đầu cũng vừa đến.Ngài dẫn đoàn Tỳ khưu Tăng túy tùng đi xung quanh linh cữu của đức Phật ba vòng, thì lửa tự nhiên bốc cháy. (Hành động đi xung quanh nhục thân của đức Phật ba vòng là một việc làm tượng trưng cho sự kính trọng cao nhất thuở bấy giờ).

Khi đốm lửa sau cùng của giàn thiêu tắt, người ta chỉ tìm thấy thân Phật biến thành những hạt nhỏ màu trắng, mà không có tro tàn trong linh cữu bằng sắt chứa Ngài.

Khi các quốc vương của mấy nước lân cận hay tin Phật đã nhập Niết bàn, gần thành Kusinàrà. Họ lập tức gởi nhiều sứ giả dến chia phần hài cốt (hay Xá Lợi) của Phật để đem về xây tháp phụng thờ.

Vua bộ tộc Mallas, lấy lý do đức Phật đã nhập Niết bàn trong lãnh thổ của ông, nên ông không muốn phân chia Xá Lợi cho bất kỳ ai khác. Lý lẽ của ông đã gây ra một sự tranh cãi sôi nổi, suýt gây chiến tranh.

Lúc bấy giờ có một đạo sĩ hiền triết thuộc giai cấp Bà la môn thất tình hình căng thẳng như thế, vội can gián rằng: ''Thật là vô lý phải dùng chiến tranh để giải quyết sự giữ phần hài cốt của một bậc trọn đời chỉ biết gieo rắc hạt giống hòa bình? Bần đạo đề nghị Xá Lợi nên chia đều ra tám phần: bãy phần cho bảy vị sứ giả và một phần cho quốc vương Mallas''.

Nhờ thế mà cuộc tranh cãi đã trở thành êm dịu. Và để cám ơn sự trọng tài của đạo sĩ hiền triết Bà la môn kia, quốc vương Mallas liền tặng cho ông chiếc bình bằng đá, dùng đựng Xá Lợi Phật trước khi chia. Còn tro tàn của các loại củi và trầm hương làm lò thiêu thân Phật, sau đó được trao cho một giai cấp Phật tử đến muộn.

Kết quả: về sau có đến mười Thánh tích, mười bảo tháp tôn thờ hài cốt của đức Phật. (tức là tám phần Xá Lợi cộng với phần thứ chín là cái bình và phần thứ mười là tro tàn của củi quý).

-ooOoo-

 Ðầu trang | I | II | III | IV | V | VI | VII | VIII | IX | X | Mục lục


Chân thành cám ơn anh HDC đã giúp tổ chức đánh máy vi tính (Bình Anson, 05-2001)


[Trở về trang Thư Mục]

update: 19-05-2001