Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

Tạng Luật
Vinaya Pitaka

Đại Phẩm
Mah
āvagga

Tỳ-khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


VII. CHƯƠNG KAṬHINA
(KAṬHINAKKHANDHAKAṂ)

[95] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhóm ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā: tất cả đều là các vị chuyên ngụ ở rừng, tất cả đều là các vị chuyên đi khất thực, tất cả đều là các vị mặc y may từ vải dơ bị quăng bỏ, tất cả đều là các vị chỉ sử dụng ba y. Trong khi đang đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, do việc vào mùa (an cư) mưa đã đến gần nên các vị không thể đến được Sāvatthi cho việc vào mùa (an cư) mưa. Các vị đã vào mùa (an cư) mưa ở Sāketa, vào khoảng giữa lộ trình. Các vị đã sống qua mùa (an cư) mưa với vẻ phiền muộn (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn ngự rất gần chúng ta cách đây chỉ sáu do tuần, vậy mà chúng ta không được diện kiến đức Thế Tôn.” Sau đó, khi đã sống qua mùa (an cư) mưa trong thời gian ba tháng, khi đã thực hiện lễ Pavāraṇā (Tự Tứ), trong lúc trời còn đang mưa, trong khi có sự gom tụ nước lại thành vũng bùn lầy, các vị tỳ khưu ấy với các y bị đẫm nước và có dáng điệu mệt mỏi đã đi đến thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

Điều này đã trở thành thông lệ đối với chư Phật Thế Tôn là niềm nở với các tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này:

- Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi đã sống qua mùa (an cư) mưa có được thoải mái, có sự đoàn kết, thân thiện, không cãi cọ nhau không? Và các ngươi có không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực không?

- Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con đã sống qua mùa (an cư) mưa có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực. Bạch ngài, trường hợp chúng con là nhóm ba mươi vị tỳ khưu xứ Pāvā trong khi đang đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn, do việc vào mùa (an cư) mưa đã đến gần nên không thể đến được Sāvatthi cho việc vào mùa (an cư) mưa. Chúng con đã vào mùa (an cư) mưa ở Sāketa, vào khoảng giữa lộ trình. Bạch ngài, chúng con đây đã sống qua mùa (an cư) mưa với vẻ phiền muộn (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn ngự rất gần chúng ta cách đây chỉ sáu do tuần, vậy mà chúng ta không được diện kiến đức Thế Tôn.” Bạch ngài, sau khi đã sống qua mùa (an cư) mưa trong thời gian ba tháng, khi đã thực hiện lễ Pavāraṇā, trong lúc trời còn đang mưa, trong khi có sự gom tụ nước lại thành vũng bùn lầy, chúng con với các y bị đẫm nước và có dáng điệu mệt mỏi đã đi đường xa đến.

[96] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, ta cho phép thành tựu Kaṭhina cho các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa. Này các tỳ khưu, khi các ngươi có Kaṭhina đã được thành tựu, năm điều này sẽ trở thành được phép (đối với các ngươi): việc ra đi không phải báo (anāmantacāro), việc ra đi không mang theo (đủ cả ba y) (asamādānacāro), sự thọ thực thành nhóm (gaṇabhojanaṃ), (sử dụng được nhiều) y theo như nhu cầu (yāvadatthacīvaraṃ), sự phát sanh về y tại nơi ấy sẽ là của các vị ấy (yo ca tattha cīvaruppādo so nesaṃ bhavissati). Này các tỳ khưu, khi các ngươi có Kaṭhina đã được thành tựu, năm điều này sẽ được phép đối với các ngươi. Và này các tỳ khưu, Kaṭhina nên được thành tựu như vầy:

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vải Kaṭhina này đã được phát sanh đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên trao vải Kaṭhina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kaṭhina. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vải Kaṭhina này đã được phát sanh đến hội chúng. Hội chúng trao vải Kaṭhina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kaṭhina. Đại đức nào đồng ý việc trao vải Kaṭhina này đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kaṭhina xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Vải Kaṭhina này đã được hội chúng trao đến vị tỳ khưu tên (như vầy) để thành tựu Kaṭhina. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Này các tỳ khưu, Kaṭhina đã được thành tựu như vầy, không được thành tựu như vầy.

[97] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kaṭhina không được thành tựu? [1]

Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn đánh dấu về chiều dài, chiều rộng (ullikhitamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn giặt (dhovanamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn tính toán về y năm điều, hoặc bảy điều, hoặc chín điều, v.v... (cīvaravicāraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn cắt theo sự đã tính toán (chedanamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn kết chỉ tạm (bandhanamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn may lại theo đường chỉ lược cho chắc (ovaṭṭikakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn gắn miếng vải làm dấu (kaṇḍasakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn may chắc chắn (daḷhīkammakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn may đường viền (anuvātakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn kết lại phần giữa (paribhandakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn đắp thêm một lớp nữa (ovaṭṭeyyakaraṇamattena). Kaṭhina không được thành tựu ở giai đoạn nhuộm (kambalamaddanamattena). Kaṭhina không được thành tựu do sự ra dấu hiệu gợi ý để thí chủ dâng (nimittakatena). Kaṭhina không được thành tựu do sự giảng giải về Kaṭhina rồi kêu gọi (parikathākatena). Kaṭhina không được thành tựu với sự làm y có tính cách tạm thời (kukkukatena). Kaṭhina không được thành tựu với sự tích trữ (sannidhikatena). Kaṭhina không được thành tựu do sự hủy bỏ vì để qua đêm (nissagiyena). Kaṭhina không được thành tựu với sự không làm thành được phép tức là không làm dấu hoại y (akappakatena). Kaṭhina không được thành tựu với y không phải là y saṅghāṭi tức là y hai lớp. Kaṭhina không được thành tựu với y không phải là thượng y, thường gọi là y vai trái (uttarasaṅgena). Kaṭhina không được thành tựu với y không phải là y nội (antaravāsakena). Kaṭhina không được thành tựu với y không phải là năm điều hoặc nhiều hơn năm điều, không được cắt và kết lại nội trong ngày hôm ấy. Kaṭhina không được thành tựu trừ phi do sự thành tựu bởi cá nhân. Nếu Kaṭhina đã được thành tựu đúng đắn nhưng vị tùy hỷ việc ấy đứng ngoài ranh giới (sīmā), như vậy Kaṭhina vẫn không được thành tựu.

Này các tỳ khưu, như thế ấy là Kaṭhina không được thành tựu.

[98] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kaṭhina đã được thành tựu?

Kaṭhina được thành tựu với (vải) mới.[2] Kaṭhina được thành tựu với (vải) được xem như mới (ahatakappena). Kaṭhina được thành tựu với vải áo choàng cũ (pilotikāya). Kaṭhina được thành tựu với vải dơ bị quăng bỏ (paṃsukūlena). Kaṭhina được thành tựu với vải đã được bỏ ở trước cửa tiệm, có người nhặt lấy rồi đem dâng (pāpaṇikena). Kaṭhina được thành tựu với sự không ra dấu hiệu gợi ý để thí chủ dâng (animittakatena). Kaṭhina được thành tựu không do sự giảng giải về Kaṭhina rồi kêu gọi (aparikathākatena). Kaṭhina được thành tựu với sự làm không phải là tạm thời (akukkukatena). Kaṭhina được thành tựu với với sự không tích trữ (asannidhikatena). Kaṭhina được thành tựu do không để qua đêm (anissaggiyena). Kaṭhina được thành tựu với với sự làm thành được phép tức là làm dấu hoại y (kappakatena). Kaṭhina được thành tựu với y saṅghāṭi tức là y hai lớp. Kaṭhina được thành tựu với thượng y thường gọi là y vai trái (uttarāsaṅgena). Kaṭhina được thành tựu với y nội (antaravāsakena). Kaṭhina được thành tựu với y là năm điều hoặc nhiều hơn năm điều, được cắt và kết lại nội trong ngày hôm ấy. Kaṭhina được thành tựu do sự thành tựu bởi cá nhân. Nếu Kaṭhina đã được thành tựu đúng đắn và vị tùy hỷ việc ấy đứng trong ranh giới (sīmā), như vậy Kaṭhina được thành tựu.

Này các tỳ khưu, như thế ấy là Kaṭhina được thành tựu.

[99] Và này các tỳ khưu, thế nào là Kaṭhina hết hiệu lực (ubbhataṃ)?

Này các tỳ khưu, đây là tám điều tiêu đề (mātikā) về sự hết hiệu lực của Kaṭhina: do sự ra đi, do (y) được hoàn tất, do tự mình quyết định, do bị mất, do nghe được (tin), do sự tan vỡ của niềm mong mỏi, do sự vượt qua ranh giới, do sự hết hiệu lực cùng một lúc.[3]

[100] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy (ādāya) y đã được làm xong, ra đi (nghĩ rằng) “Ta sẽ không trở về.” Sự việc ra đi là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới (sīmā) thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.”[4] Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” rồi chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Dứt bảy trường hợp cầm lấy là phần thứ nhất.

[101] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo (samādāya)[5] y đã được làm xong, ra đi (nghĩ rằng) “Ta sẽ không trở về.” Sự việc ra đi là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về,” và chờ đời sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Dứt bảy trường hợp mang theo là phần thứ nhì.

[102] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Dứt sáu trường hợp cầm lấy là phần thứ ba.

[103] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Dứt sáu trường hợp mang theo là phần thứ tư.

[104] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[105] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[106] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[107] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được làm), ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

[108] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y (chưa được làm), ra đi. (Tương tợ như ở trường hợp “cầm lấy,” nên được giải thích đầy đủ như thế).

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, cầm lấy y (chưa được hoàn tất), ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy. (Tương tợ như ở trường hợp “mang theo,” nên được giải thích đầy đủ như thế).

[109] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[110] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[111] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[112] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu, mang theo y chưa được hoàn tất, ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Dứt tụng phẩm “Cầm Lấy.”

[113] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[114] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[115] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Dứt mười hai trường hợp không như ý mong mỏi.

[116] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[117] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Vị ấy khởi ý như vầy: “Bởi vì Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi, vậy ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[118] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, nghe được (tin) rằng: “Nghe nói Kaṭhina tại trú xứ ấy đã được thâu hồi.” Sự việc nghe được (tin) là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” và chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi với niềm mong mỏi về y (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được như ý mong mỏi và không nhận được không như ý mong mỏi. Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Dứt mười hai trường hợp như ý mong mỏi.

[119] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

 Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó. Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[120] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

 Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[121] Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

 Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Vị ấy nhận được không như ý mong mỏi và không nhận được như ý mong mỏi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Vị tỳ khưu có Kaṭhina đã được thành tựu ra đi chính vì có công việc cần làm nào đó và không có dứt khoát; vị ấy không khởi ý rằng: “Ta sẽ trở về” và vị ấy cũng không khởi ý rằng: “Ta sẽ không trở về.” Khi vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới thì niềm mong mỏi về y sanh khởi. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ lưu tâm đến niềm mong mỏi về y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy lưu tâm đến niềm mong mỏi về y ấy. Niềm mong mỏi về y ấy của vị ấy bị tan vỡ. Sự đổ vỡ trong niềm mong mỏi về y là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Dứt mười hai trường hợp có công việc cần làm.

[122] Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài. Ngài sẽ đi đâu vậy?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi ...(như trên)... Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi ...(như trên)... Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[123] Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.

Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:

- Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chính chỗ này và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.

Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:

- Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.

Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Giữa đường đi, các vị tỳ khưu hỏi vị ấy rằng:

- Này đại đức, ngài sẽ đi đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi sẽ đi trú xứ kia, các vị tỳ khưu ở đó sẽ làm y cho tôi.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, được rồi, ngài chớ có đi. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

[124] Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi không mang theo phần chia về y. Các vị tỳ khưu đã hỏi vị du hành phương xa ấy rằng:

- Này đại đức, ngài đã trú mùa (an cư) mưa ở đâu? Và phần chia về y của ngài đâu?

Vị ấy nói như vầy:

- Tôi đã trú mùa (an cư) mưa ở trú xứ kia và phần chia về y của tôi còn ở nơi ấy.

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi và đem y ấy lại. Chúng tôi sẽ làm y cho ngài ở đây.

Vị ấy đi về lại trú xứ ấy và hỏi các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, phần chia y của tôi đâu?

Các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức, đây là phần chia y của ngài.

Vị ấy cầm lấy y ấy và đi đến trú xứ kia. Khi đã đi đến trú xứ kia, vị ấy đã khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chính chỗ này và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi ...(như trên)... “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị du hành phương xa, ra đi ...(như trên)... “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Dứt chín trường hợp không mang theo.

[125] Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Sự việc (y) được hoàn tất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ không nhờ (người) làm y này nữa và sẽ không trở về.” Sự việc tự mình quyết định là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Khi vị ấy đi khỏi ranh giới thì khởi ý như vầy: “Ta sẽ nhờ (người) làm y này ở chỗ kia và sẽ không trở về.” Vị ấy nhờ (người) làm y ấy. Trong khi y ấy của vị ấy đang được làm thì bị mất. Sự việc bị mất là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về” rồi chờ đợi sự hết hiệu lực Kaṭhina ở bên ngoài. Sự việc vượt qua ranh giới là sự hết hiệu lực Kaṭhina đối với vị tỳ khưu ấy.

Có vị tỳ khưu, có Kaṭhina đã được thành tựu và là vị sống ở trú xá với sự an lạc, đã cầm lấy y rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ đi đến trú xứ ấy. Nếu ở nơi ấy có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ kia. Nếu ở nơi kia có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ đi đến trú xứ nọ. Nếu ở nơi nọ có sự an lạc cho ta, ta sẽ cư ngụ. Nếu không có sự an lạc cho ta, ta sẽ trở về.” Vị ấy đã đi ra khỏi ranh giới và nhờ (người) làm y ấy. Vị ấy, có y đã được làm xong, (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về, ta sẽ trở về.” Thời điểm hết hiệu lực Kaṭhina đã đến. Sự hết hiệu lực Kaṭhina của vị tỳ khưu ấy là chung (lượt) với các vị tỳ khưu.

Dứt năm trường hợp trú xá với sự an lạc.

[126] Này các tỳ khưu, đây là hai điều vướng bận (palibodha), hai điều không vướng bận (apalibodha) của Kaṭhina.

Và này các tỳ khưu, hai điều vướng bận của Kaṭhina là gì?

- Sự vướng bận về trú xứ và sự vướng bận về y.

Và này các tỳ khưu, thế nào là sự vướng bận về trú xứ?

- Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu cư ngụ tại trú xứ nọ khởi lên ước muốn rồi ra đi (nghĩ rằng): “Ta sẽ trở về.” Này các tỳ khưu, như vậy là có sự vướng bận về trú xứ.

Và này các tỳ khưu, thế nào là sự vướng bận về y?

- Này các tỳ khưu, trường hợp y của vị tỳ khưu chưa được làm, hoặc là chưa được hoàn tất, hoặc là niềm mong mỏi về y chưa bị tan vỡ. Này các tỳ khưu, như vậy là có sự vướng bận về y.

Này các tỳ khưu, đây là hai điều vướng bận của Kaṭhina.

Và này các tỳ khưu, hai điều không vướng bận (apalibodha) của Kaṭhina là gì?

- Sự không vướng bận về trú xứ và sự không vướng bận về y.

Và này các tỳ khưu, thế nào là sự không vướng bận về trú xứ?

- Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu ra đi từ trú xứ ấy với sự buông bỏ, với sự từ bỏ, với sự dứt bỏ, với sự không quan tâm (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trở về.” Này các tỳ khưu, như vậy là có sự không vướng bận về trú xứ.

Và này các tỳ khưu, thế nào là sự không vướng bận về y?

- Này các tỳ khưu, trường hợp y của vị tỳ khưu đã được làm xong, hoặc bị mất, hoặc bị hư hỏng, hoặc bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y bị tan vỡ. Này các tỳ khưu, như vậy là có sự không vướng bận về y.

Này các tỳ khưu, đây là hai điều không vướng bận của Kaṭhina.

Dứt Chương Kaṭhina là chương thứ bảy.

Trong chương này có mười hai sự việc và một trăm mười tám vấn đề được lặp lại.

*******

Tóm lược chương này:

[127]

Ba mươi vị tỳ khưu
người ở xứ Pāvā
với tâm chẳng hài lòng
trú ở Sāketa.
Qua mùa an cư mưa,
các vị đã ra đi
diện kiến bậc Chiến Thắng
với (y) thấm đầy nước.
Đây chuyện Kaṭhina
và năm điều được phép:
không báo, không mang theo,
cũng thế ăn thành nhóm,
và giữ y tùy thích,
y phát sanh sẽ có
cho các vị thành tựu.
Lời đề nghị như thế,
và cũng thế thành tựu,
không thành tựu cũng thế:
được đánh dấu, và giặt,
tính toán, và việc cắt,
kết chỉ tạm, may thêm,
gắn miếng vải làm dấu,
may chắc chắn, may viền,
phần giữa, đắp lớp nữa,
nhuộm, dấu hiệu, lời giảng,
tạm thời, việc trì hoãn,
hủy bỏ, chưa được phép,
ngoại trừ ba y ấy,
ngoại trừ y năm điều,
hoặc nhiều điều hơn nữa,
được cắt rồi kết lại,
không ngoại trừ cá nhân
là được làm đúng đắn,
tùy hỷ đứng ngoài ranh
Kaṭhina không thành,
như thế đức Phật thuyết.
Không dơ, như không dơ,
choàng cũ, đồ quăng bỏ,
vải rơi nơi cửa tiệm,
không ra hiệu, thuyết giảng,
không tạm thời, không hoãn,
không hủy, dấu đã làm,
cũng thế là ba y,
năm điều hoặc hơn thế,
đã cắt, được kết lại,
thành tựu bởi cá nhân,
là việc làm đúng đắn,
tùy hỷ trong ranh giới,
như thế là thành tựu
của việc Kaṭhina.
Sự thu hồi tám điều:
sự ra đi, hoàn tất,
tự quyết định, mất đi,
nghe được, hết mong mỏi,
ranh giới, sự thu hồi
đồng lúc là thứ tám.
Cầm lấy y đã làm,
vị đi “không trở lại,”
Kaṭhina vị ấy
là đã được thu hồi
trong trường hợp ra đi.
Cầm lấy y chưa làm,
ra đi khỏi ranh giới,
vị ấy đã nghĩ rằng:
“Nơi đây ta sẽ làm
và không quay trở lại,”
trong khi được hoàn tất,
thu hồi Kaṭhina.
Cầm lấy, khỏi ranh giới,
vị ấy không nghĩ rằng:
“Ta không quay trở về;”
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
là trong khi quyết định.
Cầm lấy y ra đi
khỏi ranh giới đã nghĩ:
“Nơi đây, ta sẽ làm
và không quay về nữa,”
trong khi làm bị mất;
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
là trong trường hợp mất.
Cầm lấy rồi ra đi,
“Ta sẽ quay trở về,”
ở ngoài nhờ làm y,
y đã làm nghe được,
Kaṭhina nơi kia
đã được cho thu hồi;
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
là trong trường hợp nghe.
Cầm lấy rồi ra đi,
“Ta sẽ quay trở về,”
ở ngoài nhờ làm y,
y đã được làm xong,
ở bên ngoài chờ đợi
thu hồi Kaṭhina;
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
là do vượt qua ranh.
Cầm lấy rồi ra đi,
“Ta sẽ quay trở về,”
ở ngoài nhờ làm y,
y đã được làm xong,
“Ta sẽ quay trở về,”
đã đến thời của việc
thu hồi Kaṭhina;
việc Kaṭhina ấy
của vị ấy thu hồi
sanh lên đồng một lượt
với các vị tỳ khưu.
Cầm lấy và mang theo,
có bảy, bảy phương thức,
những trường hợp ra đi,
không có trong nhóm sáu
đường lối chưa hoàn tất.
Cầm lấy đi khỏi ranh,
khởi ý “Sẽ nhờ làm”
làm xong, tự quyết định
bị mất, ba điều này.
Cầm lấy, “Ta không về,
ta làm ngoài ranh giới,”
làm xong, tự quyết định,
bị mất, ba điều này.
Khi không được dứt khoát,
cũng không cho vị ấy,
ba phương thức bên dưới.
Cầm lấy và ra đi
“Ta sẽ quay trở về,
ta làm ngoài ranh giới,”
“Ta sẽ không quay về”
vị nhờ làm hoàn tất,
thu hồi Kaṭhina.
Tự quyết định, bị mất,
nghe được, vượt qua ranh,
được sanh khởi đồng thời
với các vị tỳ khưu,
như vầy mười lăm cách.
Mang theo, chưa hoàn tất,
mang theo như thế nữa,
bốn trường hợp này đây
toàn bộ mười lăm cách.
Không theo sự ước mốn,
và như sự mong mỏi,
có công việc cần làm,
ba điều ấy, nên hiểu
việc ấy từ phương thức
ba, mười hai, mười hai,
không thu gom, an lạc,
năm đường lối, nơi đây,               
vướng bận, không vướng bận,
sự tóm tắt được làm
từ điều đã hướng dẫn.


[1] Hai phần [97] và [98] được dịch theo nghĩa dựa vào lời giải thích của ngài Buddhaghosa.

[2] Dịch sát nghĩa là vải chưa bị dơ, chưa bị hư hoại (ahatena). Câu kế là: được xem như là không bị dơ, ngài Buddhaghosa giải thích là đã được giặt hai hoặc ba lần.

[3] Các phần kế tiếp chỉ để giải thích tám điều này. Nên đọc kỹ [126] nói về hai điều vướng bận (palibodha) để nắm được ý nghĩa của các phần kế tiếp từ đây trở đi. Một cách tổng quát, nếu còn được một trong hai điều vướng bận thì Kaṭhina vẫn còn hiệu lực.

[4] Vấn đề thâu hồi Kaṭhina được ghi lại ở Phân Tích Giới Bổn Tỳ Khưu Ni - Bhikkhunīvibhaṅga (điều pācittiya 30, [253]).

[5] Phần [100] và [101] chỉ khác nhau ở chỗ bất biến động từ “ādāya” và “samādāya” là “cầm lấy” và “tự mình cầm lấy,” chúng tôi tạm dùng từ “mang theo” cho trường hợp sau, và không nhận ra tầm quan trọng trong sự việc được nhấn mạnh ở đây.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01a | 01b | 01c | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda Nguyệt-Thiên đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 04-06-2005