BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
THERAVĀDA
Phật Giáo Nguyên Thủy
Lời Vàng Bậc Thánh (2)
Sớ giải Trưởng Lão Ni Kệ
Bhikkhu Kusalapuñño
(Tỳ khưu Thiện Phúc)
-ooOoo- 1- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI DHAMMADINNĀ Được biết trưởng lão ni Dhammadinnā đã nói lên bài kệ này:
Trong thời giáo pháp của đức Thế Tôn Padumuttara, vị trưởng lão ni Dhammadinnā nầy sanh trong một gia đình nghèo tại thành Haṃsavatī. Lớn lên, nàng phải đi làm thuê để kiếm sống. Một hôm, lúc sáng sớm nàng ôm bình đi múc nước, nhìn thấy vị trưởng lão đang khất thực nàng phát tâm trong sạch, lấy phần ăn sáng của mình dâng vào bát trưởng lão với hai tay thành kính. Sau khi nhận phần bánh của nàng, vị trưởng lão tìm một chỗ thích hợp gần đó và ngồi xuống thọ thực, thấy trưởng lão ngồi thọ dụng, nàng vô cùng hoan hỷ, chờ trưởng lão dùng xong nàng cung thỉnh Ngài đến nhà cúng dường thực phẩm, với lòng bi mẫn muốn tiếp độ nàng, nên trưởng lão đã nhận phần thực phẩm. Suốt hôm ấy, nàng vô cùng thoả thích với thiện sự của mình. Kế đó, do biết được đức hạnh của nàng, ông bà chủ đã nhận nàng về làm con dâu trong nhà. Một hôm, nàng cùng mẹ chồng đi đến tịnh xá nghe pháp, nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một tỳ kheo ni đệ nhất hạnh thuyết pháp, thoả thích với hình ảnh đó, nàng đã cung thỉnh bậc Đạo Sư cùng chư Tăng về nhà cúng dường đại thí. Khi Thế Tôn cùng chư Tăng thọ thực xong, nàng đến đảnh lễ dướng chân Thế Tôn phát nguyện rằng "Do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường trai thực, xin cho con thành tựu vị trí đệ nhất thuyết pháp trong giáo pháp của Đức Phật vị lai như trưởng lão ni kia vậy". Đức Thế Tôn bèn dùng Phật nhãn quán chiếu, thấy nguyện vọng của nàng sẽ được thành tựu, để niềm hoan hỷ của nàng càng tăng trưởng thêm, bậc Đạo Sư đã tuyên bố những quả báo tốt đẹp sẽ phát sanh đến nàng và Ngài thuyết pháp tuỳ hỷ rồi cùng chư Tăng ngự về tịnh xá. Do tích trữ nhiều thiện sự nên sau khi mạng chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, nàng tái sanh làm công chúa con của đức vua Kiṅki tại thành Bārānasī. Nàng là con thứ sáu trong bảy người con của đức vua Kiṅki có tên là Sudhammā. Sáu chị em của công chúa Sudhammā là: thứ nhất công chúa Samanī, thứ nhì công chúa Samanaguttā, thứ ba công chúa Bhikkhunī, thứ tư công chúa Bhikkhudāsikā, thứ năm công chúa Dhammā và người em út là công chúa Sanghadāsī. Trong thời Đức Phật hiện tại, sáu nàng công chúa nầy trở thành những đệ tử xuất sắc của bậc Đạo Sư đó là: 1) Trưởng lão ni Khemā vị đại đệ tử tối thắng về trí tuệ. và 7) Đại tín nữ Visākhā Đức vua Kiṅki là người đệ tử thuần thành, là người đàn tín của Thế Tôn Kassapa, cho nên bảy nàng công chúa nầy cũng trở thành những tín nữ ngoan đạo và hết lòng hộ độ Tam Bảo. Một hôm, sau khi nghe pháp nơi Thế Tôn, các nàng công chúa nầy có ý muốn xuất gia, cùng nhau đến xin phụ vương nhưng Ngài không chấp thuận, dù không được xuất gia nhưng các nàng vẫn không xao lãng lý tưởng xuất ly, thọ trì thập giới và tinh cần thực hành phạm hạnh suốt 20.000 năm. Sau khi thân hoại mạng chung, các nàng công chúa đều được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng được sanh trong một gia đình tại thành Rājagaha (Vương Xá). Khi lớn lên nàng được gả cho trưởng lão Visākha. Một hôm, trưởng giả Visākha đến tịnh xá nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, dứt thời pháp, ông chứng quả Bất Lai. Về đến nhà, lúc bước lên lầu Dhammadinnā đưa tay ra đón chồng nhưng Visākha không cầm tay nàng. Lúc dùng cơm Visākha cũng lặng lẽ ăn không nói một lời, Dhammadinnā cảm thấy lạ, muốn hiểu duyên cớ, nàng lên tiếng hỏi rằng: "Thưa phu quân, vì sao hôm nay chàng không cầm tay thiếp, thậm chí lúc dùng cơm chàng cũng không nói một lời, có phải thiếp đã làm điều gì sai chăng?". Trưởng giả Visākha đáp: "Nầy Dhammadinnā, nàng không có điều gì sai, kể từ hôm nay tôi sẽ không xúc chạm với thân phụ nữ và không nói những lời phù phiếm về vật thực vì tôi đã tỏ ngộ giáo pháp, nếu nàng thích thì cứ ở lại đây, nếu không thích nàng hãy cầm lấy những tài sản ưng ý và trở về nhà của mình". Dhammadinnā bèn nói: "Thưa phu quân, thiếp sẽ không nuốt đồ mửa của chàng đâu, xin chàng hoan hỷ cho phép thiếp xuất gia". Trưởng giả Visākha đáp: "Lành thay, nầy Dhammadinnā". Rồi Visākha đưa nàng đến trú xứ tỳ kheo ni trên chiếc kiệu vàng. Sau khi xuất gia xong nàng thọ trì đề tài thiền quán; vì muốn sống viễn ly yên tịnh, nàng đi đến thầy tế độ thưa rằng: "Bạch thầy, tâm con không thích chỗ đông người, ồn ào, xin thầy cho con đến một nơi yên tịnh gần làng". Các vị tỳ kheo ni đưa nàng đến một nơi thích hợp gần làng. Sống tại đấy không bao lâu, nhờ duyên lành chín muồi và sự tinh cần tu tập, nàng chứng quả Alahán với tứ vô ngại giải. Giai thoại nầy, nàng đã kể trong tập Apadāna:
Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão ni Dhammadinnā suy nghĩ rằng: "Tâm của ta đã chấp dứt mọi phiền não, bây giờ ta phải làm gì, ta sẽ đến Rājagaha đảnh lễ bậc Đạo Sư và tiếp độ các quyến thuộc". Rồi trưởng lão cùng với các tỳ kheo ni trở về thành Rājagaha. Cận sự nam Visākha hay tin trưởng lão ni Dhammadinnā trở về. Để thẩm nghiệm sự giác ngộ của trưởng lão ni, chàng đã nêu lên các câu hỏi thâm sâu vi tế, trưởng lão ni Dhammadinnā đã giải đáp rành rẽ, rõ ràng như cắt cành sen bằng con dao bén. Cận sự nam Visākha đi đến bậc Đạo Sư thuật lại cuộc luận đạo của mình với trưởng lão ni Dhammadinnā, bậc Đạo Sư đã tán thán trưởng lão ni với lời rằng: "Nầy Visākha, tỳ kheo ni Dhammadinnā là bậc hiền trí". Rồi bậc Đạo Sư lấy sự việc ấy làm nhân, Ngài tuyên bố giữa chư Tăng rằng: "Nầy chư tỳ kheo ni Dhammadinnā là người thù thắng hơn Ni chúng về hạnh thuyết pháp". Và trong quá trình tu chứng, trước khi thành đạt đạo quả Alahán, trưởng lão ni Dhammadinnā đã nói lên bài kệ nầy:
* 2. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI NANDĀ Để giáo giới tỳ kheo ni Nandā, bậc Đạo Sư đã phán bài kệ, nhờ bài kệ này, tỳ kheo ni Nandā được chứng quả Alahán và nàng đã xem đây là bài kệ tâm đắc của mình
Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, tỳ kheo ni Nandā nầy sanh làm con gái của một gia chủ giàu có. Khi lớn lên, nàng được duyên lành nghe pháp nơi bậc Đạo Sư và trở thành một tín nữ nhiệt thành hộ độ Tam Bảo. Sau khi Đức Thế Tôn níp-bàn, mọi người đóng góp chung hùn xây dựng bảo tháp tôn thờ Xá lợi, nàng đã phát tâm trong sạch cúng dường bảo tháp Xá lợi cây lọng vàng và trang hoàng với nhiều châu báu. Do thiện sự đó, sau khi mạng chung nàng được sanh lên thiên giới. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh làm công chúa của đức vua Khemaka tại thành Kapilavatthu và có tên là Nandā. Công chúa Nandā có một dung sắc xinh đẹp, khả ái, đáng nhìn nên nàng được mọi người ban tặng danh xưng là Abhirūpanandā (Nandā xinh đẹp). Khi nàng trưởng thành, có một vị hoàng tử rất thương yêu nàng, trong ngày thành hôn, vị hoàng tử ấy đã mệnh chung. Đức vua và mẫu hậu cưỡng bức nàng xuất gia, dù trong lòng nàng không muốn. Sau khi xuất gia, nàng vẫn kiêu hãnh với sắc đẹp của mình và nàng không dám đến yết kiến bậc Đạo Sư vì nghĩ rằng: "Bậc Đạo Sư thường khiển trách về sự luyến ái xác thân và dùng nhiều phương tiện trình bày mối hiểm hoạ của xác thân nầy". Đức Thế Tôn biết trí tuệ nàng đã thuần thục, Ngài bèn dạy Mahāpajāpati tập hợp các tỳ kheo ni lại để nghe giáo giới. Tới phiên mình, tỳ kheo ni Abhirūpanandā nhờ vị khác đi thế. Đức Thế Tôn biết được phán rằng: "Khi tới phiên tỳ kheo ni phải tự mình đi, không được nhờ vị khác". Không thể làm trái lời dạy bậc Đạo Sư, nên nàng đã cùng với chư Ni đến nghe giáo giới. Đức Thế Tôn dùng thần thông hoá ra một thiếu nữ kiều diễm, chỉ cho một mình nàng thấy, khi Đức Thế tôn biết nàng bị cuốn hút bởi hình ảnh người thiếu nữ tuyệt trần ấy, Ngài khiến cho người thiếu nữ từ từ già nua với những thể trạng suy sụp. Nhìn thấy cảnh tượng đó, nàng bị xúc cảm mạnh, rồi để giáo hoá nàng, bậc Đạo Sư đã nói hai bài kệ rằng:
Vừa dứt bài kệ, tỳ kheo ni Abhirūpanandā phát triển tuệ quán chứng quả Alahán. Trưởng lão kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau:
* 3- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI ABHAYAMĀTĀ Được biết trưởng lão ni Abhayamātā đã nói lên bài kệ rằng:
Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Tissa, vị trưởng lão ni nầy, sanh trong một gia đình bàlamôn. Do từng gieo duyên lành với chư Phật quá khứ nên khi nhìn thấy Đức Phật Tissa đi khất thực, nàng phát tâm trong sạch đặt thực phẩm cúng dường. Nhờ phước báu thành kính để bát đến Đức Phật, khi mệnh chung nàng được sanh lên thiên giới. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh tại thành Ujjenī. Vì nàng vô cùng xinh đẹp nên được ban tặng danh hiệu là hoa khôi của kinh thành và tên là Padumavatī. Đức vua Bimbisāra (Bình Sa vương) nghe tin về sắc đẹp của nàng bèn gọi quan tế tự đến dạy rằng: "Nầy hiền khanh, ta nghe tại thành Ujjenī có một hoa khôi tên Padumavatī, trẫm muốn gặp mặt nàng". Quan tế tự đáp: "Thưa vâng, tâu đại vương". Rồi với sức mạnh chú thuật, quan tế tự triệu đến một dạ xoa tên Kumbhīra, dạ xoa dùng thần lực đưa đức vua đến thành Ujjenī, tại nhà của nàng Padumavatī. Đêm hôm đó đức vua đã chăn gối với nàng, khi biết mình có mang, nàng đã thông báo cho đức vua biết. Đức vua nói rằng: "nếu sanh con trai nàng hãy nuôi dưỡng cho thật tốt, khi con lớn hãy dẫn vào cung cho trẫm". Và đức vua ban cho nàng chiếc nhẫn có khắc tên, rồi Ngài trở về hoàng cung. Thời gian thấm thoát vừa tròn mười tháng, nàng hạ sanh một hoàng nam, trong ngày lễ đặt tên, nàng đặt tên cho con là Abhaya (Vô uý). Khi Abhaya được bảy tuổi, nàng đưa Abhaya đến yết kiến đức vua và nói với con rằng: "Đức vua Bimbisāra là phụ vương của con". Đức vua nhìn thấy đứa bé, trong lòng đã dâng lên một tình cảm phụ tử, Ngài bèn nhận nuôi dưỡng bảo bọc nó trong hoàng cung. Về sau, khi đức vua Bimbisāra bị thái tử Ajātasattu sát hại, hoàng tử Abhaya bị xúc động mạnh, chán nản đời sống thế tục, chàng đến xuất gia trong giáo pháp. Nhờ tinh cần nỗ lực và trí tuệ chín muồi không bao lâu tôn giả Abhaya chứng đạt quả vị Alahán. Một hôm Padumavatī vì thương nhớ con đã đi đến thăm viếng. Nhân cơ hội nầy tôn giả Abhaya thuyết pháp tế độ thân mẫu, sau thời pháp bà khởi niềm tin, đến xin xuất gia tại trú xứ tỳ kheo ni. Nhờ thời pháp của tôn giả Abhaya cùng với thiện duyên giải thoát chín muồi, sau khi xuất gia tu tập không bao lâu, bà cũng được chứng quả Alahán. Trưởng lão Abhayamāta đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau:
Sau khi chứng quả Alahán, do tâm đắc bài kệ giáo giới của trưởng lão Abhaya, trưởng lão ni đã hân hoan xướng lên bài kệ ấy:
* 4- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI UBBIRI Bậc Đạo Sư đã cảnh tỉnh nàng với bài kệ rằng:
Sau khi chứng quả Alahán, nàng nói lên bài kệ rằng:
Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, nàng sanh trong một gia đình tại thành Haṃsavati. Một hôm, cha mẹ nàng đi đến nhà người bạn tham dự một cuộc lễ, do không kết giao với ai, nàng đành phải ở nhà. Lúc bấy giờ, có một vị trưởng lão Alahán, đi khất thực ngang qua cửa, nàng nhìn thấy, khởi ý muốn cúng dường, bèn bước ra thưa rằng: "Bạch Ngài, xin thỉnh Ngài vào nhà". Khi trưởng lão vào nhà, nàng quỳ xuống đảnh lễ ngũ thể đầu địa, rồi nàng sắp đặt một sàng toạ dâng đến trưởng lão. Sau khi trưởng lão ngồi trên sàng toạ ấy, nàng nhận bát để đầy vật thực và thành kính dâng đến trưởng lão, trưởng lão nói lời tuỳ hỷ phúc chúc rồi rời khỏi nơi ấy. Do thiện sự đó, sau khi mệnh chung nàng được sanh cõi Đạo Lợi, thọ hưởng những thiên sản đặc thù trên cõi ấy. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong một gia đình giàu có tại thành Sāvatthī, được cha mẹ đặt tên là Ubbiri. Do phước báu quá khứ, nên nàng có dung sắc xinh đẹp khả ái. Vừa lớn lên nàng được đưa vào hậu cung của đức vua Kosola. Vài năm sau, nàng sanh một cô công chúa rất dễ thương và đặt tên là Jīvā, đức vua Kosala thấy đứa con, Ngài rất hài lòng, bèn tấn phong nàng làm hoàng hậu. Nhưng ít lâu sau con nàng qua đời, nàng vô cùng đau khổ, ngày nào cũng đi đến mộ địa than khóc. Một hôm, nàng đến yết kiến bậc Đạo Sư, rồi sau đó nàng đi đến bờ sông Aciravatī đứng than khóc, bậc Đạo Sư thấy vậy, Ngài ngồi tại hương thất phóng hào quang đến phán hỏi rằng: "Vì sao con khóc?" Nàng thưa rằng: "Vì tiếc thương bé Jīvā nên con khóc, bạch Thế Tôn". Bậc Đạo Sư phán rằng: "Tại mộ địa nầy có đến tám mươi bốn ngàn con gái của ngươi bị thiêu, vậy ngươi than khóc cho ai". Rồi Ngài chỉ cho nàng chỗ thiêu xác những đứa con đã chết và nói lên bài kệ rằng:
Nàng dùng trí tuệ suy quán theo lời dạy, với pháp âm vi diệu của bậc Đạo Sư cùng với duyên lành chín muồi, nàng đứng tại chỗ ấy phát triển tuệ quán chứng quả Alahán. Giai thoại sau đây được nàng kể trong tập Apadāna:
Hoan hỷ với quả chứng của mình, nàng đã nói lên bài kệ rằng:
* 5- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI SUKKĀ Một vị thọ thần sau khi được nghe pháp nơi trưởng lão ni, quá hoan hỷ pháp thoại, đã tán thán với bài kệ rằng:
Và trước khi níp-bàn hoan hỷ với quả chứng của mình, trưởng lão ni Sukkā đã nói lên bài kệ rằng:
Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, trưởng lão ni Sukkā sanh trong một gia đình tại thành Bandhumatī. Khi trưởng thành, nàng tháp tùng với các tín nữ khác đi đến tịnh xá nghe pháp. Sau khi nghe pháp thoại nơi bậc Đạo Sư, nàng khởi niềm tin và xin xuất gia trong giáo pháp. Do phước duyên quá khứ, cùng với sự chuyên cần học hỏi Thánh điển Phật ngôn, nàng trở thành bậc đa văn, vị pháp sư lỗi lạc trong hàng Ni chúng. Sống phạm hạnh cho đến khi mãn thọ, nàng được sanh lên cõi Đâu Xuất. Nàng là người hữu duyên, hữu phúc được diện kiến và được xuất gia trong giáo pháp của đức Chánh Đẳng Gáic Sikhī, đức Chánh Đẳng Giác Vessabhū, đức Chánh Đẳng Giác Kakusandha, đức Chánh Đẳng Giác Konāgamana, đức Chánh Đẳng Giác Kassapa và do phước duyên khéo tích trữ, khi xuất gia trong giáo pháp của chư Thế Tôn ấy, nàng luôn là bậc đa văn, bậc pháp sư xuất chúng trong hàng Ni giới. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh trong một gia đình quyền quý tại thành Rājagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Sukkā. Do duyên lành quá khứ, nên từ nhỏ nàng đã có niềm tin trong sạch nơi Tam Bảo và trở thành một tín nữ ngoan đạo. Về sau, khi được nghe pháp nơi trưởng lão ni Dhammadinnā, với trí tuệ hiểu pháp, nàng cảm nhận rằng đời sống thế tục nhiều phiền muộn, nhiều đau khổ và nàng đã xin xuất gia nơi trú xứ của trưởng lão ni Dhammadinnā. Do là người từng thông hiểu pháp học và pháp hành trong giáo pháp của chư Phật quá khứ, nên khi đang cạo tóc nàng đã phát triển tuệ quán chứng đạt Alahán cùng với tuệ phân tích. Trong tập Apadāna đã ghi lại giai thoại về trưởng lão như sau:
Sau khi chứng quả Alahán, nàng trở thành vị pháp sư lỗi lạc, có khoảng năm trăm tỳ khưu ni đoanh vây. Một hôm, nàng vào thành Vương Xá khất thực, dùng xong nàng trở về trú xứ tỳ kheo ni, nàng đã thuyết pháp đến hội chúng lớn đang câu hội tại đấy, pháp thoại hay đến nỗi các tỳ kheo ni như cảm thấy được nhận từ nàng những hương vị ngọt ngào, thấm nhuần nước bất tử và tất cả đều thành kính lắng tâm nghe pháp. Lúc bấy giờ, có một vị chư thiên ngự trên cội cây cuối con đường kinh hàng của trưởng lão ni, hoan hỷ với pháp thoại của nàng, đã đi khắp nơi trong thành Vương Xá tán thán đức hạnh của nàng với hai bài kệ rằng:
Sau khi nghe những lời tán thán của vị chư thiên, dân chúng hân hoan lũ lượt kéo nhau đến trú xứ của trưởng lão ni Sukkā, lắng nghe nàng thuyết pháp với tâm thành kính và toàn thể thính chúng ấy đều nhận được những lợi ích từ pháp thoại của nàng. Rồi khi tuổi thọ đã tận, trước giờ níp-bàn, hoan hỷ với quả chứng của mình, trưởng lão ni đã xướng lên bài kệ rằng:
* 6- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI SELĀ Ác ma đến nói với trưởng lão ni Selā bài kệ như sau:
Trưởng lão ni Selā trả lời ác ma với bài kệ như sau: . Ngược dòng thời gian cách đây một trăm ngàn đại kiếp, vị trưởng lão ni nầy sanh trong một gia đình giàu có tại thành Haṃsavatī. Khi trưởng thành, cha mẹ gả nàng cho một công tử môn đăng hộ đối. Sống hạnh phúc bên chồng được nhiều trăm năm. Một hôm, chàng công tử ấy bị bịnh qua đời khiến nàng vô cùng buồn khổ, nhưng vẫn tiếp tục sống với cuộc đời goá bụa, cho đến một ngày kia, nàng nhận thấy rằng: "Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, tuổi thanh xuân của ta cũng dần dần biến mất, sự vô thường quá ư khắc nghiệt đã cướp lấy những vật yêu quý của ta". Khiến nàng phát sanh kinh tởm, nàng rời khỏi nhà, đi lang thang khắp nơi, từ am thất nầy đến am thất nọ, từ vu viện nầy đến tu viện kia, với mục đích duy nhất là tìm cầu chân hạnh phúc. Một hôm, nàng dừng lại trước cội đại thọ sum xuê tươi tốt, chỗ giác ngộ của Đức Thế Tôn, nàng nhìn cội bồ đề suy nghĩ rằng: "Nếu Đức Thế Tôn là bậc Vô thượng, không ai sánh bằng, thì xin cây bồ đề hãy biểu diễn thần lực cho tôi thấy, ngay lập tức cội bồ đề phát quang tuần tự như ý của nàng, các cành nhánh đều hoá thành vàng chiếu sáng khắp các hướng, nhìn thấy sự kỳ diệu như thế, nàng vô cùng hoan hỷ tịnh tín và thể hiện sự tôn kính bằng cách ngồi chấp hai tay trên đầu tại đấy suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, nàng đã thành kính cúng dường năm ngọn đèn đến cội bồ đề. Do phước nghiệp ấy, sau khi mệnh chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh làm công chúa con của đức vua Ālāvi, tên là Selā và nàng còn một tên gọi nữa là Ālāvikā (người xứ Ālāvī). Khi bậc Đạo Sư cảm hoá được đức vua Ālāvī, Ngài bèn giao y bát cho vua cầm rồi ngự vào thành Ālāvī cùng đức vua. Công chúa đi yết kiến bậc Đạo Sư và đức vua. Sau khi nghe pháp, nàng khởi niềm tin trong sạch nơi Tam bảo và trở thành một tín nữ mộ đạo. Một hôm, nàng phát sanh động tâm và đến xin xuất gia nơi các tỳ kheo ni, nhờ duyên lành tròn đủ, trí tuệ chín muồi nàng đã chứng đạt Alahán ngay sau đó. Trưởng lão kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna:
Sau khi chứng quả Alahán, nàng trú tại Sāvatthī. Một hôm, sau khi thọ thực xong nàng rời khỏi thành Sāvatthī, đi đến rừng Andha để chỉ tịnh ban ngày, dưới một cội cây. Lúc bấy giờ, ác ma muốn phá sự độc cư an tịnh của nàng, dưới hình thức một người lạ, đã đến và nói bài kệ nầy:
Nghe những lời ấy, vị trưởng lão ni nghĩ rằng: "Đây là ác ma muốn quyến rũ ta trở về với dục lạc, không cho ta đi đến Níp bàn, nó không biết rằng ta đã đoạn tận các lậu hoặc, quả là si mê, thôi được ta sẽ cho nó sáng mắt, nàng bèn nói lên hai bài kệ rằng: . * 7- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI BHADDAKĀPILĀNĪ Được biết trưởng lão ni Bhaddakāpilānī đã nói lên bài kệ rằng:
Thưở quá khứ, trong thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, trưởng lão ni nầy sanh trong một gia đình giàu có tại thành Haṃsavatī. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng được gả cho trưởng lão Videha. Videha là một cận sự nam thuần thành trong giáo pháp, chàng thường xuyên đi đến tịnh xá nghe Phật thuyết pháp. Một hôm, lúc đến nghe pháp, chàng nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị đại thinh văn đệ nhất hạnh đầu đà, thoả thích hình ảnh đó, nghe pháp xong chàng cung thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Tăng về nhà cúng dường suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy khi Đức Thế Phật cùng chư Tăng thọ thực xong, tay rời khỏi bát, chàng trưởng giả đến quỳ dưới chân Thế Tôn chú nguyện vị trí ấy. Sau khi dùng Phật nhãn quán chiếu, Đức Thế Tôn đã phán bài kệ rằng: "Nầy cận sự nam tín thành, con hãy hoan hỷ, trong một trăm ngàn kiếp nữa vào thời kỳ giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác Gotama, nguyện vọng của con sẽ được thành tựu, con sẽ là người thừa tự giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy có tên là Kassapa". Nghe lời tiên tri của Bậc Đạo Sư, trưởng giả Videha vô cùng hoan hỷ, chàng tích cực hộ độ Đức Phật cùng chư Tăng đầy đủ với những vật dụng. Nói về vợ của trưởng giả Videha,s au khi về làm vợ của Videha, nàng hết lòng phụng sự chồng, thực hiện đầy đủ những bổn phận đối với chồng và được trưởng giả rất mực thương yêu. Những lúc rảnh rỗi nàng thường cùng với trưởng giả đi nghe pháp và trở thành một tín nữ ngoan đạo. Một ngày nọ, lúc đến tịnh xá nghe pháp, nàng thấy Đức Thế Tôn tán thán một vị tỳ kheo ni thù thắng với hạnh túc mạng thông, hoan hỷ với vị trí ấy, trong những dịp cùng chồng cúng dường, nàng đã âm thần chú nguyện cho mình. Khi Đức Thế Tôn níp bàn, trưởng giả Videha đã kêu gọi quyến thuộc cùng bạn bè họp lại xây dựng một ngôi bảo tháp cao bảy do tuần, thành tựu bằng các châu báu chói như ánh mặt trời và rực rỡ như cây chúa trổ hoa để cúng dường bậc Đạo Sư. Lúc bấy giờ, vợ trưởng giả Vedeha cho bảy người thợ làm bảy trăm ngọn đèn, lấy một loại dầu đặc biệt có hương đổ vào đầy bình, lửa từ bảy trăm ngọn đèn cháy sáng rực để cúng dường Đức Thế Tôn. Rồi nàng cho thợ làm bảy trăm cái bình cúng dường bảo tháp cho trồng hoa xung quanh, cho trang hoàng cờ xí và bảo tháp được thành tựu bằng vật báu này, chiếu sáng rực rỡ như ánh mặt trời. Nàng đã cùng với chồng cúng dường hộ độ đến Đức Phật và chư Tăng, thực hiện nhiều thiện sự cho đến khi mệnh chung, cả hai được sanh lên thiên giới. Trong những kiếp luân chuyển sanh tử, nàng đã gắn bó với chồng như gốc với thân vậy. Nàng đã kể lại những giai thoại nầy trong tập Apadāna: Vào thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, tại thành Bandhumatī, có một vị bàlamôn được nhiều người ca tụng là người tốt, là người giàu có, đầy đủ với đức hạnh và tài sản. Nhưng sau đó chàng bị suy sụp tài sản, rơi vào nghèo khó. Lúc bấy giờ, ta là vợ của vị bàlamôn ấy, thỉnh thoảng ta cùng chồng đi đến nghe pháp nơi Đức Thế Tôn. Một hôm, chàng đến tịnh xá nghe Thế Tôn thuyết pháp, dứt thời pháp chàng phát tâm trong sạch hoan hỷ cởi tấm vải đang choàng trên người, dâng đến bậc Đạo Sư và trở về nhà với độc nhất một tấm vải che thân. Khi về đến nhà, chàng mới nói với ta rằng: "Mình ơi! Mình hãy tuỳ hỷ phước, tôi đã dâng tấm vải choàng đến Thế Tôn rồi!" Nghe vậy, ta chấp tay tỏ lời tuỳ hỷ rằng: "Lành thay thưa phu quân, thiếp rất hoan hỷ việc cúng dường của chàng". Và hai vợ chồng cùng chia xẻ nhau niềm vui phước báu. Khi mệnh chung ta và chàng đều được sanh lên thiên giới. Dứ t tuổi thọ trên thiên giới, chàng được sanh làm vua trị vì tại thành Bārāṇasī, còn ta tái sanh làm hoàng hậu của vua, do duyên tiền kiếp nên đức vua rất sủng ái ta. Một hôm, đức vua nhìn thấy tám vị Phật Độc Gigác đang đi khất thực, Ngài đã đặt vào bát chư Phật những vật thực thượng vị. Sau đó, đức vua đã xây dựng một phước xá đặc biệt, cho trang hoàng xinh đẹp rồi dâng đến chư Phật Độc Giác. Đức vua cùng ta hết lòng hộ độ chư Độc Giác Phật và trị vì đất nước theo chánh pháp. Mệnh chung từ kiếp ấy, đức vua được sanh trong một gia đình bàlamôn giàu có tại thành Bārāṇasī còn ta được sanh làm vợ của chàng. Một hôm, sau khi cãi vã với cô em chồng, nhìn thấy cô ta để bát cúng dường Đức Phật Độc Giác với tâm bực tức đố kỵ ta suy nghĩ rằng: "Nếu cô ta đặt bát cúng dường Đức Phật, thì cô ta sẽ được thành tựu tài sản, sao ta có thể để cho cô ấy đạt được điều đó". Nghĩ vậy, ta bèn đi đến lấy bát từ tay Đức Phật, trút bỏ tất cả thực phẩm trong bát, rồi múc bùn đổ đầy lại, dâng đến Đức Phật, khi làm như vậy ta bị nhiều người chỉ trích rằng: "Hỡi kẻ ngu si kia, Đức Độc Giác có lỗi gì với ngươi chăng, sao ngươi lại làm như vậy?" Cảm thấy hổ thẹn với những lời ấy, ta đi đến xin bát, đổ bùn ra rửa sạch rồi lau khô bằng bột thơm, xong ta lấy những thực phẩm thượng vị đặt đầy vào bát, dâng đến Đức Độc Giác. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, ta tái sanh làm con gái của vị trưởng giả giàu có tại thành Bārāṇasī, do việc múc bùn đổ vào bát Đức Phật Độc Giác, nên thân thể ta có mùi hôi thối, khiến mọi người xa lánh ta. Khi Đức Thế Tôn Kassapa níp bàn, chồng ta, cùng nhiều người lo xây dựng bảo tháp, ta đã gom góp tất cả những tư trang, làm thành một phiến vàng và tẩm phiến vàng ấy với một loại nước thơm đặc biệt, được tinh chế từ bốn loại hương liệu đặt nơi bệ thờ của bảo tháp. Do phước lành nầy, khiến mùi hôi từ thân thể ta tự biến mất. Mệnh chung, ta cùng chàng được sanh lên thiên giới, mãn thọ từ thiên giới, chàng tái sanh trong một gia đình giàu có tại xứ Kāsī, tên là Sumitta. Khi lớn lên ta được gả về làm vợ chàng, chàng rất thương yêu ta và gia đình ta thật là hạnh phúc. Trong kiếp nầy, ta và chàng đã dâng Đức Phật Độc Giác một tấm vải đặc biệt và thường xuyên cúng dường hộ độ vật dụng đến Ngài. Sau kiếp sống ấy, chàng tái sanh tại làng Koliya, do duyên nợ tiền kiếp ta cũng được làm vợ chàng. Lúc bấy giờ, chàng đã lãnh đạo năm trăm gia đình làng Koliya, hộ độ năm trăm vị Phật Độc Giác và xây dựng những phước xá, cung thỉnh quý Ngài an cư ba tháng mùa mưa. Trong suốt ba tháng, gia đình ta cùng các dân làng đã cúng dường hộ độ đầy đủ tứ vật dụng đến chư Phật. Khi ra hạ, những giga đình tại đây đã cùng nhau dâng tam y đến quý Ngài. Mạng chung từ kiếp ấy, chàng tái sanh làm vua tên là Nanda, trị vì một đại quốc độ và có nhiều uy lực. Lúc bấy giờ, ta được làm hoàng hậu của vua và là chỗ sủng ái của Ngài, Ngài là một vị vua nhân từ hiền đức, rất thương yêu dân, Ngài hướng dẫn mọi người sống theo thiện pháp. Nhờ tận tâm hết lòng chăm lo đất nước nên dân chúng thời ấy sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng và ta cũng rất hạnh phúc bên Ngài. Khi tuổi thọ đã mãn, Ngài được sanh làm vua Brahmadatta trị vì tại thành Bārāṇasī và ta cũng được làm hoàng hậu Ngài. Trong kiếp nầy, đức vua và ta đã thỉnh năm trăm vị Phật Độc Giác về ngụ tại vườn thượng uyển và hằng ngày cúng dường hộ độ thực phẩm đến quý Ngài. Khi chư Phật lần lượt níp bàn, đức vua và ta xây dựng bảo tháp tôn thờ xá lợi của quý Ngài. Chứng kiến từng bậc khả kính tuần tự ra đi theo định luật vô thường, ta và đức vua bị xúc động mạnh, rồi quyết định từ bỏ tất cả, đi vào vườn thượng uyển xuất gia làm đạo sĩ. Nhờ tu tiến và chứng đạt thiền tứ vô lượng tâm, nên sau khi mạng chung ta và đức vua được sanh lên phạm thiên giới. Khi hết tuổi thọ từ cõi phạm thiên ta sanh trong một gia đình bàlamôn Kosiya tại thành Sāgala. Cha của ta tên là Kapila, mẹ tên là Sucīmati sống tại thị trấn Madda. Do là tiểu thư độc nhất trong một gia đình giàu có nên từ nhỏ ta được nuôi dưỡng rất chu đáo và được nhiều người hầu hạ. Do tích trữ nhiều phước lành, nên ta có một dung sắc xinh đẹp, khả ái đáng nhìn. Khi trưởng thành do duyên nợ nhiều kiếp, ta được gả về làm vợ cho bàlamôn trưởng giả Pipphali tại làng Mahātittha. Một hôm, khi đi khảo sát những thưở ruộng, bấy giờ nhằm mùa dọn đất, những người nông dân cày xới đất lên, cuốn theo những loài côn trùng nằm ngổn ngang, Pipphali nhìn thấy những đàn chim sà xuống xớt lấy những con côn trùng đang hoảng hốt lẩn trốn, bị động tâm bởi những cảnh tượng ấy, chàng trở về nhà với nét mặt buồn bã ủ dột, khi ta đến vấn an, chàng mới nói rằng: "Này hiền thê! Toàn bộ gia sản này ta giao lại cho nàng, ta không thể tiếp tục sống đời cư sĩ nữa, ta sẽ xuất gia". Nghe vậy, ta nói với chàng: "Thưa phu quân! thiếp sẽ không nhận gia sản nầy đâu vì thiếp cũng có ý định xuất gia". Thế là ta và chàng từ bỏ mọi ràng buộc của thế tục, trở thành bậc xuất gia. Lúc bấy giờ, hệ thống Ni chúng chưa được thành lập, ta đã sống tại trú xứ du sĩ năm năm. Khi bậc Đạo Sư cho phép nữ giới xuất gia, ta đã đến thọ cụ túc giới nơi trưởng lão ni Mahāpajāpati Gotamī (dì mẫu Phật), tu tập không bao lâu, ta chứng đạt quả vị Alahán. Sau khi chứng quả Alahán, do hạnh nguyện quá khứ và do nỗ lực hiện tại, trưởng lão ni Bhaddakāpilāni trở thành vị thù thắng về túc mạng thông. Do biết rõ hạnh nguyện và thành quả của nàng, nhân một buổi hội họp của chư Tăng tại Jetavanavihāra (Kỳ viên tịnh xá), bậc Đạo Sư đã biểu dương nàng là vị đệ nhất về túc mạng thông trong hàng Ni chúng. Một hôm, để tán thán đức hạnh của trưởng lão Mahākassapa và xác chứng quả vị giải thoát của mình, trưởng lão ni Bhaddakāpilānī đã nói lên bài kệ rằng:
* 8- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI NANDĀ (2) Được biết trưởng lão ni Nandā đã nói lên bài kệ rằng:
Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong hoàng tộc Thích Ca và được đặt tên là Nandā. Do có dung sắc xinh đẹp, nên nàng được mọi người ban tặng cho một danh xưng nữa là Sundarīnandā (hoa khôi Nandā). Khi Đức Thế Tôn giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác, Ngài tuần tự ngự trở về thành Kapilavatthu để tiếp độ quyến thuộc, Ngài đã độ cho thái tử Nanda và thái tử Rāhula xuất gia. Khi đức vua Suddhodana (Tịnh Phạn) níp bàn, dì mẫu Mahāpajāpatigotamī và nàng Yasodhara (mẹ Rāhula) xuất gia, Nandā suy nghĩ rằng: "Hoàng huynh của ta đã từ bỏ ngôi vị chuyển luân vương, xuất gia trở thành bậc Toàn Giác, bậc tối thượng trong thế gian, thái tử Rāhula con của Ngài cũng đã xuất gia, hoàng huynh Nanda, mẫu hậu Mahāpajāpatigotamī cùng hoàng tỷ Yasodhara cũng đã xuất gia hết rồi, vậy ta ở nhà làm gì? Thôi ta hãy xuất gia". Như vậy nàng xuất gia không phải vì lòng tin mà chính vì tình cảm quyến luyến quyến thuộc. Mặc dù đã xuất gia nhưng nàng vẫn tự kiêu với thân sắc, sợ bậc Đạo Sư qưở trách nên nàng không đến yết kiến Ngài. Trưởng hợp của nàng cũng tương tự như câu chuyện của tỳ kheo ni Abhirūpanandā, chỉ khác là khi nàng thấy một thiếu nữ mỹ miều do Đức Phật hoá hiện và chứng kiến nhan sắc ấy từ từ bị biến dịch, bị tàn lụi, nàng vô cùng kinh cảm. Nhờ duyên lành tròn đủ, nàng lấy đề mục ấy suy quán dựa trên tam tướng vô thường, khổ vô ngã, khi biết tâm nàng đã chuyên chú trên đề mục, bậc Đạo Sư bèn giáo hoá nàng bằng bài kệ rằng: . Dựa trên lời dạy bậc Đạo Sư, nàng phát triển tuệ quán, chứng quả Dự Lưu, và để giúp nàng đạt được những quả vị cao hơn, bậc Đạo Sư dạy tiếp rằng: "Này Nandā, trong tấm thân nầy không có một chút gì tinh tuý cả, chỉ là một đống xương, tô đắp bằng máu thịt, bị già chết chi phối". Như được nói trong tập Pháp cú rằng:
Vừa dứt pháp thoại, nàng đã chứng quả Alahán. Nàng đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau:
Sau khi đắc quả Alahán, nhìn lại quá trình tu chứng của mình, nàng xướng lên bài kệ rằng:
* 9- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI BHADDĀKUṆḌLAKESĀ Được biết trưởng lão ni Bhaddākuṇḍalakesā đã nói lên bài kệ rằng:
Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong một gia đình trưởng giả tại thành Rājagaha (Vương Xá) và tên là Bhaddā. Vì là con độc nhất của gia đình giàu có nên nàng rất được cha mẹ thương yêu, cưng chiều và nhiều người hầu hạ. Khi trưởng thành, một hôm nàng nhìn thấy tên trộm tên Sattuka, con của quan tế tự trong thành bị quân lính áp giải ngang nhà để đem đến pháp trường xử trảm, vì phạm vào trọng tội có đủ nhân chứng, vật chứng. Do duyên tiền kiếp nên nàng cảm thấy thương yêu tên tội phạm vô ngần. Nàng nằm sấp trên giường than khóc rằng: "Nếu được chàng, ta sẽ sống, bằng không chắc ta sẽ chết". Người cha vì quá thương con nên đã hối lộ một ngàn đồng vàng cho quan lính và đưa Sattuka đến gặp nàng. Sống với nhau được ba hôm, nhìn thấy những đồ trang sức quý gái của nàng, Sattuka khởi lòng tham, muốn chiếm đoạt, bèn nói với nàng rằng: "Nầy em Bhaddā, khi bị lính bắt, anh có phát nguyện với chư thiên ngự tại hòn núi bỏ kẻ trộm (vì vực núi nầy là nơi quăng những tên tội phạm trộm cắp) là khi nào anh được thả, anh sẽ mang lễ vật đến tạ ơn, vậy em hãy giúp anh chuẩn bị những lễ vật, để chúng ta đi tạ ơn". Vâng lời chàng, Bhaddā sắp đặt đầy đủ các lễ vật, trang điểm xong nàng cùng chồng đi đến ngọn núi ấy. Khi đến chân núi, Sattuka nghĩ rằng: "Nếu tất cả cùng lên núi thì làm sao ta thực hiện được", Sattuka bèn cho nhóm tuỳ tùng dừng lại tại đấy, rồi cầm lấy túi đựng lễ vật cùng với Bhaddā đi lên núi. Trên đường đi hắn biểu lộ những thái độ không thân ái với nàng khiến nàng cảm thấy nghi ngờ. Khi đến đỉnh núi, hắn nói rằng: "Nầy Bhaddā, nàng hãy lộ hết những nữ trang trên người, cởi áo ngoài ra gói những nữ trang ấy lại". Bhaddā hỏi rằng: "Thưa phu quân, em có làm điều gì sái quấy chăng?" Hắn đáp: "nầy nàng ngu, ngươi nghĩ rằng ta đến đây để cúng tế à, nói thật cho nàng biết, ta dụ nàng đến đây để cướp những nữ trang của nàng". Nàng nói: "Thưa phu quân, những đồ trang sức nầy là của ai và thân em là của ai?". Hắn đáp: "Ta không biết gì về sự phân chia nầy cả". Nàng nói: "Thôi được thưa phu quân, nhưng cầu xin chàng cho em một đặc ân, được đeo những nữ trang nầy và hôn chàng lần cuối cùng". Hắn chấp thuận và khi biết hắn đã nhận lờ, nàng giả bộ ôm hôn hắn rồi liền xô hắn xuống vực, tên trộm ấy rơi xuống vực sâu tan xương nát thịt. Vị chư thiên ngự tại ngọn núi thấy sự thôn minh, sự bình tĩnh ứng xử của nàng, đã khen ngợi với bài kệ rằng:
Rồi Bhaddā suy nghĩ: "Sự việc xảy ra như vầy, ta không thể trở về nhà được, rời khỏi nơi đây, ta chỉ còn cách xuất gia thôi". Nàng bèn đi đến trú xứ của nhóm ngoại đạo Nigantha xin xuất gia. Nhóm Nigantha hỏi nàng: "Nàng muốn xuất gia ở bậc nào?" Nàng đáp: "Bậc thượng trong giáo phái của quý Ngài như thế nào, hãy cho tôi xuất gia như vậy." Các Nigantha nói: "lành thay", rồi xúm lại nhổ tóc xuất gia cho nàng. Không lâu sau, tóc nàng mọc ra và quăn lại, từ đó nàng mới có tên là Kuṇḍalakesā (nàng tóc quăn). Sau khi học hỏi giáo lý của tông phái nầy, nàng nhận thấy rằng, nơi giáo phái nầy không có gì huyền nhiệm đặc biệt, nàng bèn từ giã chúng Nigantha và tìm đến các vị danh sư thọ giáo học đạo. Cuối cùng với tài trí hùng biện sắc sảo của nàng khiến không có ai dám tranh luận, nàng đi khắp nơi và khi đến khu làng hay thị trấn nào nàng vun lên một đống cát gần cổng ra vào, cắm một nhánh cây diêm phù và căn dặn những đứa trẻ ở gần đó rằng: "Người nào muốn tranh luận với ta thì hãy dẫm lên cành cây diêm phù nầy". Sau bảy ngày không có ai dẫm lên, nàng liền đem cành cây ấy đến nơi khác. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn sau khi Chuyển pháp luân, Ngài tuần tự du hành đến thành Sāvatthī và ngự tại Jetavana (Kỳ Viên Tịnh Xá). Nàng Kuṇḍalakesā đi khắp nơi từ làng mạc, thị trấn đến kinh đô, lần lượt cũng đến thành Sāvatthī và cắm cành cây diêm phù lên đống cát gần cổng thành, căn dặn những đứa trẻ rồi nàng đi vào thành. Sáng hôm ấy, tôn giả Sārīputta, vị tướng quân chánh pháp một mình vào thành, nhìn thấy cành cây, tôn giả bèn hỏi các đứa trẻ rằng: "Vì sao cành cây nầy được cắm ở đây". Các đứa trẻ giải thích cho biết, nghe xong, tôn giả nói với chúng rằng: "Nếu là vậy, các ngươi hãy dẫm lên cành cây nầy đi". Các đứa trẻ vâng lời Ngài cùng nhau dẫm lên cành cây ấy. Nàng Kuṇḍalakesā sau khi thọ thực xong trở ra thành thấy cành cây bị dẫm, bèn hỏi những đứa trẻ. Khi biết tôn giả Sārīputta cho dẫm, nàng suy nghĩ rằng: "Cuộc tranh luận nầy, nếu không có nhiều người tham dự thì sẽ không thú vị" Nàng bèn đi đến các con đường thông báo rằng: "Thưa quý vị, xin quý vị hãy đến chứng kiến cuộc tranh luận giữa tôi với sa môn thích tử". Sau khi quy tụ được một số đông quần chúng, nàng cùng họ đi tìm tôn giả. Bấy giờ Ngài đang ngồi dưới một cội cây, đến nơi nàng nói lên những lời hỏi thăm xã giao, rồi đứng một bên hỏi rằng: "Thưa tôn giả, cành cây diêm phù tôi cắm, có phải Ngài đã cho những đứa trẻ dẫm lên chăng?" Tôn giả đáp: "Đúng vậy, ta đã cho các đứa trẻ dẫm lên". Nàng nói rằng: "Nếu là vậy, thì sẽ có cuộc tranh luận giữa tôi với Ngài". Tôn giả nói: "Xin mời Bhaddā". Nàng nói: "Thưa tôn giả, Ngài hỏi trước hay tôi?" Tôn giả: "Thông thường ta sẽ hỏi trước, nhưng giờ nàng cứ hỏi điều nàng biết". Thuận theo ý tôn giả, nàng nêu lên những câu hỏi theo kiến thức của mình. Tôn giả đã giải đáp sáng tỏ những câu hỏi ấy. Khi không còn gì để hỏi, nàng đành im lặng. Tôn giả nói: "Nàng đã nêu lên nhiều vấn đề hỏi ta, bây giờ đến lượt ta chỉ hỏi nàng một điều thôi". Nàng: "Xin tôn giả cứ hỏi đi". Tôn giả hỏi rằng: "Ekaṃ nāma kiṃ - Thế nào là một pháp". Nàng Kuṇḍalakesā tìm không thấy nút thắt đầu, không thấy nút thắt cuối ví như người lạc giữa màn đêm u tịch, bèn thú nhận rằng: "Tôi không biết thưa Ngài". Tôn giả nói: "Chỉ với một pháp, ngươi còn chưa biết, thì những pháp khác sao ngươi có thể biết được". Rồi tôn giả thuyết pháp cho nàng, dứt pháp thoại, nàng khấu đầu dưới chân tôn giả thưa rằng: Bạch tôn gỉa, con xin quy y nơi Ngài". Tôn giả khuyên: "Nầy Bhaddā, chớ có quy y ta, ngươi hãy đến quy y nơi Thế tôn, bậc Đạo Sư của trời người". Nàng nói: "Con sẽ làm theo lời Ngài dạy - Bạch Ngài". Chiều lại nàng đi đến yết kiến bậc Đạo Sư, đảnh lễ ngũ thổ đầu địa, rồi đứng một bên, bậc Đạo Sư thấy căn cơ nàng đã thuần thục bèn phán rằng: . Vừa dứt bài kệ, cũng trong tư thế đứng ấy nàng chứng quả Alahán với tứ tuệ phân tích. Nàng đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna:
Sau khi chứng quả Alahán, nàng đã xin xuất gia, bậc Đạo Sư truyền đạt giới cho nàng, nàng đi đến tịnh xá của các tỳ kheo ni, sống với sự an lạc giải thoát, nhìn lại quá trình tu chứng của mình, nàng đã nói lên bài kệ rằng:
* -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Tỳ khưu Chánh Minh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 10-2005).
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 14-10-2005