Dao Su
Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

THERAVĀDA

SỬ LIỆU VỀ ĐẢO LAṄKĀ
(DĪPAVAṂSA)

Nguyên tác Pāli: Không rõ danh tánh
Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda (Trương đình Dũng)

SRI JAYAWARDHANARAMAYA
COLOMBO – 2005

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


SATTAMO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ BẢY

1/-
Mahāsamāgamo hoti jambudīpasamantato,
bhikkhu-asītikoṭiyo bhikkhunī channavuti sahassiyo.

Đã có một cuộc đại hội gồm tám mươi koṭi (800.000.000) vị tỳ khưu và chín mươi sáu ngàn vị tỳ khưu ni từ khắp các nơi thuộc xứ Jambudīpa.

2/-
Bhikkhū ca bhikkhuniyo ca chaḷabhiññā bahutarā,
bhikkhū iddhānubhāvena samaṃ katvā mahītalaṃ.

Phần lớn các vị tỳ khưu và tỳ khưu ni đều có sáu thắng trí. Các vị tỳ khưu đã tự làm bằng phẳng mặt đất nhờ vào năng lực thần thông.

3/-
Lokavivaraṇaṃ katvā dassesuṃ pūjiye mahe,
asokārāme ṭhito rājā jambudīpaṃ avekkhati.

Và đã khai mở vũ trụ để phô bày các lễ hội cúng dường. Đức vua đã đứng ở tu viện Asoka quan sát xứ Jambudīpa.

4/-
Bhikkhu-iddhānubhāvena asoko sabbattha passati,
addasa vihāraṃ sabbaṃ sabbattha mahiyaṃ kataṃ.

Nhờ vào năng lực thần thông của các vị tỳ khưu, đức vua Asoka đã xem xét khắp mọi nơi. Đức vua đã nhìn thấy tất cả các tu viện được xây dựng ở khắp các nơi trên trái đất.

5/-
Dhajaṃ ussāpitaṃ pupphaṃ toraṇañca mālagghiyaṃ,
kadalipuṇṇaghaṭañc’eva nānāpupphasamohitaṃ.

(Mỗi tu viện) có cờ xí được dương lên, bông hoa, cổng chào, tràng hoa giá trị, thân cây chuối, và chum đầy (nước) được trang hoàng với nhiều loại bông hoa.

6/-
Addasa dīpamaṇḍalaṃ vibhūsantaṃ catuddisaṃ,
pamodito haṭṭhamano pekkhanto vattate mahe.

Đức vua đã nhìn thấy khuôn viên hòn đảo được trang hoàng khắp bốn phương và đã trở nên hoan hỷ, thích ý trong khi quan sát các lễ hội đang được tiến hành.

7/-
Samāgate bhikkhusaṅghe bhikkhunī ca samāgate,
mahādānañca paññattaṃ dīyamāne vanibbake.

(Tại các lễ hội) hội chúng tỳ khưu đã tụ họp lại và các tỳ khưu ni đã cùng nhau đi đến, còn có các người ăn xin đang được ban bố vật thí hậu hĩ dành riêng cho họ.

8/-
Caturāsītisahassāni vihāre disvāna pūjite,
asoko’pi attamano bhikkhusaṅghaṃ pavedayi.

Sau khi nhìn thấy tám mươi bốn ngàn tu viện đã được dâng cúng, với tâm tư hoan hỷ đức vua Asoka cũng đã thông báo đến hội chúng tỳ khưu rằng:

9/-
Ahañca bhante dāyādo satthubuddhassa sāsane,
bahu mayhaṃ pariccāgo sāsane sāravādino.

Thưa các ngài, trẫm là thân quyến trong Giáo Pháp của đức Phật là đấng Đạo Sư. Nhiều sự cống hiến của trẫm đối với Giáo Pháp được xem là các bằng chứng.

10/-
Channavutikoṭiyo ca vissajjetvā mahādhanaṃ,
caturāsītisahassāni ārāmā kāritā mayā.

11/-
Pūjāya dhammakkhandhassa buddhaseṭṭhassa desite,
cattārisatasahassāni devasikaṃ pavattayi.

Trẫm đã xuất ra tài sản khổng lồ là chín mươi sáu koṭi và đã cho xây dựng tám mươi bốn ngàn tu viện để cúng dường đến (tám mươi bốn ngàn) Pháp uẩn đã được đức Phật tối thượng thuyết giảng, và mỗi ngày chi dụng bốn trăm ngàn.

12/-
Ekañca cetiyaṃ pūjaṃ ekaṃ nigrodhasavhayaṃ,
ekañca dhammakathikānaṃ ekaṃ gilānapaccayaṃ.

Cúng dường bảo tháp là một phần, vị tên là Nigrodha là một phần, dâng các vị Pháp sư là một phần, và một phần là nhu cầu của các vị bệnh.

13/-
Dīyati devasikaṃ niccaṃ mahāgaṅgāva odanaṃ,
añño koci pariccāgo bhiyyo mayhaṃ na vijjati.

Thường xuyên mỗi ngày lượng cơm được bố thí như là sông Gaṅgā rộng lớn. Không tìm thấy được bất cứ sự cống hiến nào khác hơn được (sự bố thí) của trẫm.

14/-
Saddhā mayhaṃ daḷhatarā tasmā dāyādo sāsane,
sutvāna vacanaṃ rañño dhammāsokassa bhāsitaṃ.

15/-
Paṇḍito sutasampanno nipuṇatthavinicchayo,
saṅghassa tesu vihāraṃ anuggahatthāya sāsanaṃ.

Niềm tin của trẫm là bền vững hơn, do đó trẫm là thân quyến trong Giáo Pháp.” Sau khi lắng nghe lời phân trần của đức vua Asoka công chính, trong số các vị ấy của hội chúng có vị thông thái, thành tựu về học tập, khéo léo giải quyết sự việc nhằm mục đích nâng đỡ sự tồn tại của Giáo Pháp.

16/-
Anāgate ca addhāne pavattiṃ ñatvā vicakkhaṇo,
byākāsi moggaliputto dhammāsokena pucchitaṃ.

Biết được sự tiến triển trong tương lai xa vời nên khi được đức vua Asoka công chính hỏi, vị có sự suy xét toàn diện Moggalliputta đã trả lời rằng:

17/-
Paccayadāyako nāma sāsane paṭibāhiro,
yassa puttaṃ vā dhītaraṃ vā urasmiṃ jātamanvayaṃ.

18/-
Pabbājesi cajetvāna so ve dāyādo sāsane,
sutvāna vacanaṃ rājā dhammāsoko mahīpati.

Người thí chủ về vật dụng gọi là người ở bên ngoài Giáo Pháp. Người nào hy sinh và khuyến khích người con trai hoặc con gái có cùng dòng dõi và được sanh ra trong huyết thống đi xuất gia, người ấy thật sự là thân quyến trong Giáo Pháp.” Đức vua Asoka công chính, vị chúa tể của trái đất, đã lắng nghe lời chỉ dạy ấy.

19/-
Mahindakumāraṃ puttaṃ saṅghamittañca dhītaraṃ,
ubho amantayi rājā dāyādo homi sāsane.

Đối với con trai là hoàng tử Mahinda và con gái là Saṅghamittā, đức vua đã nói với cả hai rằng: “Hãy giúp trẫm trở thành thân quyến trong Giáo Pháp.”

20/-
Sutvāna pituno vākyaṃ ubho puttādhivāsayuṃ,
suṭṭhu deva sampaṭicchāma karoma vacanaṃ tava.

Nghe được lời nói của cha, cả hai người con đã đồng ý rằng: “Tâu bệ hạ, tốt lắm. Chúng con xin chấp thuận và thi hành lời nói của cha.

21/-
Pabbājesi ca no khippaṃ dāyādo hohi sāsane,
paripuṇṇavīsati vasso mahindo asokatrajo.

Cha hãy mau mau cho chúng con xuất gia và trở thành thân quyến trong Giáo Pháp.” Mahinda, người con trai của đức vua Asoka, là vừa tròn hai mươi tuổi.

22/-
Saṅghamittā ca jātiyā vassaṃ aṭṭhārasaṃ bhave,,
chavassamhi asokassa ubho pabbajitā pajā.

Và Saṅghamittā, người con gái là mười tám tuổi. Cả hai người con đã được xuất gia vào năm thứ sáu của triều đại vua Asoka.

23/-
Tath’eva upasampanno mahindo dīpajotako,
saṅghamittā tadā yeva sikkhāyo’va samādiyi.

Theo đúng như thế, bậc quang đăng Mahinda đã được tu lên bậc trên. Chính vào lúc ấy, Saṅghamittā đã thọ trì các điều học.

24/-
Ahu moggaliputto’va theravādo mahāgaṇī,
catupaññāsa vassamhi dhammāsoko abhisitto.

Khi vị có hội chúng đông đảo Moggaliputta thuộc hệ phái Theravāda được năm mươi bốn niên lạp, đức vua công chính Asoka được phong vương.

25/-
Asokassābhisittato cha saṭṭhi moggalisavhayo,
tato mahindo pabbajito moggaliputtassa santike,
pabbājesi mahādevo majjhanto upasampade.

Sáu năm sau khi đức vua Asoka được đăng quang và vị tên Moggali được sáu mươi (niên lạp), khi ấy Mahinda đã được xuất gia trong sự chứng minh của ngài Moggaliputta, ngài Mahādeva đã cho xuất gia và ngài Majjhanta (là vị tuyên ngôn) trong cuộc lễ tu lên bậc trên.

26/-
Ime te nāyakā tīṇi mahindassānukampakā,
moggaliputto upajjhāyo mahindaṃ dīpajotakaṃ.

27/-
Vācesi piṭakaṃ sabbaṃ atthaṃ dhammañca kevalaṃ,
asokassa dasavassamhi mahindo catuvassiko.

Các vị thầy hướng dẫn ấy là ba (mẫu mực về những) người có lòng thương tưởng đến Mahinda. Moggaliputta là thầy tế độ đã dạy cho bậc quang đăng Mahinda tất cả các Tạng, ý nghĩa, và toàn bộ Giáo Pháp. Mahinda được bốn niên lạp nhằm vào năm thứ mười của triều vua Asoka.

28/-
Sabbaṃ sutapariyattiṃ gaṇ’upācariyo ahū,
sudesitaṃ suvibhattaṃ ubhosaṅgahasuttakaṃ.

29/-
Mahindo theravādakaṃ uggahetvāna dhārayi,
vinīto moggaliputto mahindaṃ asokatrajaṃ.

Ngài Moggaliputta đã huấn luyện Mahinda là người con trai của đức vua Asoka. Sau khi học tập, Mahinda đã duy trì toàn bộ pháp học đã được nghe, đã được khéo thuyết giảng, đã được khéo phân tích, là những lời kinh điển của hai kỳ kết tập, là lời dạy của các vị trưởng lão, và đã trở thành vị thầy kế thừa của hội chúng.

30/-
Tisso vijjā chaḷabhiññā caturo paṭīsambhidā,
tisso moggaliputto ca mahindaṃ saddhivihārikaṃ,
āgamapiṭakaṃ sabbaṃ sikkhāpesi nirantaraṃ.

Và ngài Tissa Moggaliputta là vị có tam minh, sáu thắng trí, bốn tuệ phân tích đã dạy cho đệ tử Mahinda toàn bộ Kinh Tạng không thiếu sót.

--ooOoo--

31/-
Tīṇivassamhi nigrodho catuvassamhi bhātaro,
chavassamhi pabbajito mahindo asokatrajo.

(Tiếp kiến) Nigrodha là vào năm thứ ba, (giết chết) các anh em vào năm thứ tư, con trai của Asoka là Mahinda đã xuất gia vào năm thứ sáu.[1]

32/-
Kontiputtā ubho therā tisso cā’pi sumittako,
aṭṭhavassamhi’sokassa parinibbiṃsu mahiddhikā.

Cả hai vị trưởng lão Tissa và Sumittaka có đại thần lực đã viên tịch Niết Bàn vào năm thứ tám của (triều đại) Asoka. Cả hai vị đều là con trai của Kontī.[2]

33/-
Ime kumārā pabbajitā ubho therā ca nibbutā,
upāsakattaṃ desiṃsu khattiyā brāhmaṇā bahū.

Những người con vua này đã xuất gia và hai vị trưởng lão đã Niết Bàn. Nhiều người Sát-đế-lỵ và Bà-la-môn đã tuyên bố tư cách cư sĩ.

34/-
Mahālābho ca sakkāro uppajji buddhasāsane,
pahīnalābhasakkārā titthiyaputhuladdhikā.

Lợi lộc dồi dào và sự tôn vinh đã đến với Giáo Pháp của đức Phật, còn ngoại đạo và tà giáo có lợi lộc và sự tôn vinh thấp kém.

35/-
Paṇḍaraṅgā jaṭilā ca nigaṇṭhācelakādikā,
aṭṭhaṃsu sattavassāni ahosi vagguposatho.

Các ngoại đạo như là Paṇḍaraṅga, Jaṭila, Nigaṇṭha, Acelaka, v.v... đã hiện diện (trà trộn), và trong bảy năm lễ Uposatha đã được thực hiện theo phe nhóm.

36/-
Ariyā pesalā lajjī na pavisanti uposathaṃ,
sampatte ca vassasate vassaṃ chattiṃsa satāni ca.

Các vị Thánh nhân hiền thiện, có liêm sĩ đã không tham dự lễ Uposatha. Và hai trăm ba mươi sáu năm đã trôi qua (kể từ lúc đức Phật viên tịch Niết Bàn).

37/-
Saṭṭhi bhikkhusahassāni asokārāme vasiṃsu te,
ājīvakā aññaladdhikā nānā dūsenti sāsanaṃ.

Sáu mươi ngàn vị tỳ khưu đã cư ngụ trong tu viện Asokārāma. Họ là các đạo sĩ Ājīvaka và nhiều giáo phái khác đã làm hư hoại Giáo Pháp.

38/-
Sabbe kāsāvavasanā dūsenti jinasāsanaṃ,
bhikkhusahassaparivuto chaḷabhiñño mahiddhiko.

39/-
Moggaliputto mahāpañño paravādappamaddano,
theravādaṃ daḷhaṃ katvā saṅgahaṃ tatiyaṃ kato.

Mặc y ca-sa, tất cả bọn họ đã làm hư hoại Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Với một ngàn vị tỳ khưu tùy tùng, ngài Moggaliputta có đại trí tuệ, đại thần lực, sáu thắng trí, là vị đã triệt hạ các học thuyết khác, đã củng cố hệ phái Theravāda, và đã tiến hành cuộc kết tập lần thứ ba.

40/-
Madditvā nānāvādāni nīharitvā alajjino,
sāsanaṃ jotayitvāna kathāvatthuṃ pakāsayi.

Sau khi bác bỏ các học thuyết khác và trục xuất những kẻ vô liêm sĩ, ngài đã làm sáng chói Giáo Pháp và đã công bố tác phẩm Kathāvatthu.

41/-
Tassa moggaliputtassa mahindo saddhivihāriko,
upajjhāyassa santike saddhammaṃ pariyāpuṇi.

Mahinda là đệ tử của vị Moggaliputta ấy và đã học tập Chánh Pháp trực tiếp từ thầy tế độ.

42/-
Nikāye pañca vācesi sattac’eva pakaraṇe,
ubhato vibhaṅgaṃ vinayaṃ parivārañca khandhakaṃ,
uggahi vīro nipuṇo upajjhāyassa santike’ti.

Ngài Moggaliputta đã dạy về năm bộ Kinh và bảy tập Vi Diệu Pháp, cả hai bộ Luật Phân Tích thêm vào bộ Tập Yếu và Luật Hợp Phần. Vị anh hùng (Mahinda) thông minh đã học tập trực tiếp từ vị thầy tế độ.

43/-
Nikkhante dutiye vassasate vassāni chattiṃsati,
puna bhedo ajāyitha theravādānamuttamo.

Khi hai trăm ba mươi sáu năm đã trôi qua, lại có sự chia rẽ trầm trọng đã phát khởi giữa các vị thuộc hệ phái Theravāda.[3]

44/-
Pātaḷiputtanagaramhi rajjaṃ kāresi khattiyo,
dhammāsoko mahārājā pasanno buddhasāsane.

Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc tại thành Pātaḷiputta là đại vương Asoka công chính đã có niềm tin vào Phật Pháp.

45/-
Mahādānaṃ pavattesi saṅghe guṇavaruttame,
cattāri satasahassāni ekāhen’eva nissaji.

Đức vua đã tiến hành cuộc đại thí đến hội chúng cao quý nhất về đức hạnh và đã xuất ra bốn trăm ngàn chỉ trong một ngày.

46/-
Cetiyassa yajā ekaṃ dhammassa savanassa ca,
gilānānañca paccayaṃ ekaṃ saṅghassa nissaji.

Đức vua đã cúng dường một phần đến ngôi bảo tháp, (một phần) cho việc nghe Pháp, (một phần) về thuốc men cho các người bệnh, và một phần đến hội chúng (tỳ khưu).

47/-
Titthiyā lābhaṃ disvāna sakkārañca mahārahaṃ,
saṭṭhimattasahassāni theyyasaṃvāsakā ahū.

Các vị ngoại đạo với số lượng sáu mươi ngàn nhận thấy lợi lộc và sự tôn vinh vô cùng lớn lao nên đã cộng trú theo lối trộm cắp (hình tướng).

48/-
Asokārāmavihāramhi pātimokkho paricchiji,
kārāpento pātimokkhaṃ amacco ariye ghātayi.

Ở tại tu viện Asokārāma, giới bổn Pātimokkha đã bị gián đoạn. Có vị quan đại thần trong lúc cho tiến hành (việc đọc tụng) giới bổn Pātimokkha đã giết chết nhiều bậc Thánh nhân.

49/-
Titthiye niggahatthāya bahū buddhassa sāvakā,
saṭṭhimattasahassāni jinaputtā samāgatā.

Nhằm mục đích chế ngự các kẻ ngoại đạo, nhiều Thinh Văn đệ tử Phật với số lượng sáu mươi ngàn vị Thích Tử đã tụ hội lại.

50/-
Ekasmiṃ sannipātamhi thero Moggali atrajo,
satthukappo mahānāgo paṭhavyā n’atthi īdiso.

Tại cuộc hội họp ấy, vị trưởng lão Moggaliputta là vị bậc trưởng thượng được xem như là bậc Đạo Sư, ở trên trái đất không có gì sánh bằng.

51/-
Ariyānaṃ ghātitaṃ kammaṃ rājā theraṃ apucchatha,
pāṭihīraṃ karitvāna rañño kaṅkhaṃ vinodayi.

Khi ấy, đức vua đã hỏi vị trưởng lão về việc các bậc Thánh nhân đã bị giết hại. Vị trưởng lão đã thể hiện thần thông và đã giải tỏa nỗi nghi hoặc của đức vua.[4]

52/-
Therassa santike rājā uggahetvāna sāsanaṃ,
theyyasaṃvāsabhikkhuno nāseti liṅganāsanaṃ.

Đức vua đã học hỏi giáo lý trực tiếp từ vị trưởng lão và đã cho trục xuất các vị tỳ khưu đã cộng trú theo lối trộm cắp (hình tướng).

53/-
Titthiyā sakavādena pabbajitvā anādarā,
buddhavacanaṃ bhindiṃsu visuddhakañcanaṃ iva.

Sau khi xuất gia, những kẻ ngoại đạo không lòng tự trọng đã phá hoại Phật Pháp được ví như vàng ròng tinh khiết bằng học thuyết của mình.

54/-
Sabbe’pi te bhinnavādā vilomā theravādato,
tesañca niggahatthāya sakavādavibodhanaṃ.

55/-
Desesi thero abhidhammaṃ kathāvatthuppakaranaṃ,
niggaho īdiso natthi paravādappamaddanaṃ.

Tất cả các hệ phái ly khai ấy là trái nghịch với truyền thống Theravāda. Nhằm mục đích chế ngự những kẻ ấy và làm rạng rỡ truyền thống của mình, vị trưởng lão đã thuyết giảng tập tài liệu Kathāvatthu thuộc Tạng Vi Diệu Pháp. Việc triệt hạ các học thuyết khác với sự miệt thị tương tợ như thế là chưa từng có.

56/-
Desetvā thero abhidhammaṃ kathāvatthuppakaraṇaṃ,
sakavādasodhanatthāya sāsanaṃ dīghakālikaṃ.

57/-
Arahantānaṃ sahassaṃ uccinitvāna nāyako,
varaṃ varaṃ gahetvāna akāsi dhammasaṅgahaṃ.

Sau khi thuyết giảng tập tài liệu Kathāvatthu thuộc Tạng Vi Diệu Pháp, vị trưởng lão, là người lãnh đạo, đã tuyển chọn và có được một ngàn vị A-la-hán rồi đã tiến hành cuộc kết tập Giáo Pháp nhằm mục đích thanh lọc truyền thống của mình và duy trì Giáo Pháp trong thời gian lâu dài.

58/-
Asokārāmavihāramhi dhammarājena kārite,
navamāsehi niṭṭhāsi tatiyo saṅgaho ayanti.

Cuộc kết tập lần thứ ba này đã hoàn tất trong chín tháng ở tại tu viện Asokārāma đã được cho xây dựng bởi đức vua Asoka công chính.

Tatiya-saddhamma-saṅgahaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt cuộc kết tập Chánh Pháp lần thứ ba.

Sattamo paricchedo.
Chương thứ bảy.

Bhāṇavāraṃ sattamaṃ.
Tụng phẩm thứ bảy.

--ooOoo--

AṬṬHAMO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ TÁM

 1/-
Moggaliputto dīghadassī sāsanassa anāgate,
paccantamhi patiṭṭhānaṃ disvā dibbena cakkhunā.

Là người có tầm nhìn xa, ngài Moggaliputta đã nhìn thấy bằng thiên nhãn sự thiết lập của Giáo Pháp ở khu vực biên địa trong ngày vị lai.

2/-
Majjhantikādayo there pāhesi attapañcame,
sāsanassa patiṭṭhāya paccante sattavuddhiyā.

Ngài đã phái đi các vị trưởng lão như là vị Majjhantika, v.v... bản thân là vị thứ năm (của nhóm) nhằm thiết lập Giáo Pháp ở khu vực biên địa và vì sự tấn hóa của chúng sanh (bảo rằng):

3/-
Paccantakānaṃ desānaṃ anukampāya pāṇinaṃ,
pabhātukā balappattā desetha dhammamuttamaṃ.

Vì lòng thương tưởng đến các chúng sanh ở các xứ thuộc khu vực biên địa, là những vị chói sáng và có năng lực các ngươi hãy thuyết giảng Giáo Pháp tối thượng.”

4/-
Gantvā gandhāravisayaṃ majjhantiko mahā isi,
kupitaṃ nāgaṃ pasādetvā mocesi bandhanā bahū.

Vị đại ẩn sĩ Majjhantika sau khi đi đến lãnh địa Gandhāra đã tạo được niềm tin ở nơi con rồng đang giận dữ và đã giải thoát cho nhiều người khỏi sự trói buộc.

5/-
Gantvāna raṭṭhaṃ mahisaṃ mahādevo mahiddhiko,
coditvā nirayadukkhena mocesi bandhanā bahū.

Vị Mahādeva có đại thần lực sau khi đi đến quốc độ Mahisa đã khuyến cáo nỗi khổ đau ở địa ngục và đã giải thoát cho nhiều người khỏi sự trói buộc.

6/-
Athāparo’pi rakkhito vikubbanesu kovido,
vehāsaṃ abbhuggantvāna desesi anamataggiyaṃ.

Rồi một vị khác nữa là Rakkhita rành rẽ trong thuật biến hóa đã bay lên không trung và đã thuyết giảng về sự luân hồi vô tận.

7/-
Yonakadhammarakkhitathero nāma mahāmati,
aggikkhandhopamasuttakathāya aparantakaṃ.

Vị trưởng lão tên Dhammarakkhita xứ Yonaka có đại trí tuệ đã đi đến Aparantaka cho việc thuyết giảng bài kinh “Ví dụ về đám lửa.”[5]

8/-
Mahādhammarakkhitathero mahāraṭṭhaṃ pasādayi,
nāradakassapajātakakathāya ca mahiddhiko.

Vị trưởng lão Mahādhammarakkhita có đại thần lực đã tạo niềm tin ở xứ Mahāraṭṭha với bài thuyết giảng về chuyện Bổn Sanh Nāradakassapa.

9/-
Mahārakkhitatheropi yonakalokaṃ pasādayi,
kālakārāmasuttantakathāya ca mahiddhiko.

Vị trưởng lão Mahārakkhita có đại thần lực cũng đã tạo niềm tin ở địa phương Yonaka với việc thuyết giảng bài kinh “Kālakārāma.”

10/-
Kassapagotto ca yo thero majjhimo ca durāsado,
sahadevo mūlakadevo yakkhagaṇaṃ pasādayuṃ,
kathesuṃ tattha suttantaṃ dhammacakkappavattanaṃ.

Còn vị trưởng lão Majjhima, cùng với Kassapagotta, Durāsada, Sahadeva, Mūlakadeva đã tạo niềm tin cho tập thể dạ-xoa. Tại nơi ấy, các vị đã thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân.

11/-
Suvaṇṇabhūmiṃ gantvāna soṇuttaro mahiddhiko,
niddhametvā pisācepi mocesi bandhanā bahū.

Sau khi đi đến Suvaṇṇabhūmi, vị Soṇa và Uttara có đại thần lực cũng đã khuất phục lũ ác thần và đã giải cứu nhiều người khỏi sự giam cầm.

12/-
Laṅkādīpavaraṃ gantvā mahindo attapañcamo,
sāsanaṃ thāvaraṃ katvā mocesi bandhanā bahū.

Còn ngài Mahinda, bản thân là vị thứ năm, sau khi đi đến hòn đảo Laṅkā cao quý đã thiết lập bền vững Giáo Pháp và đã giải thoát cho nhiều người khỏi sự trói buộc.

Nānādesa-pasādo nāma.
Niềm tin ở các khu vực khác.

Aṭṭhamo paricchedo.
Chương thứ tám.

Bhāṇavāraṃ aṭṭhamaṃ.
Tụng phẩm thứ tám.

--ooOoo--

NAVAMO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ CHÍN

1/-
Laṅkādīpo ayaṃ ahū sīhena sīhalā iti,
dīpuppattiṃ imaṃ vaṃsaṃ suṇātha vacanaṃ mama.

Hòn đảo Laṅkā này gọi là Sīhala dựa theo từ sīha (sư tử). Xin hãy lắng nghe lời nói của tôi về lịch sử phát sanh lên hòn đảo.

2/-
Vaṅgarājassāyaṃ dhītā araññe vanagocarā,
sīhasaṃvāsamanvāya bhātaro janayī duve.

Người con gái ấy của đức vua Vaṅga thường lai vãng trong khu rừng. Do việc sống chung với sư tử, nàng đã sanh ra hai anh em trai.

3/-
Sīhabāhu ca sīvalī kumārā cāru dassanā,
mātā ca susimā nāma pitā ca sīhasavhayo.

Hai cậu bé trai Sīhabāhu và Sīvalī có dáng vóc xinh xắn. Mẹ tên là Susimā còn cha được gọi là Sīha (Sư tử).

4/-
Atikkante soḷasavasse nikkhamitvā guhantarā,
māpesi nagaraṃ tattha sīhapuraṃ varuttamaṃ.

Mười sáu năm trôi qua, Sīhabāhu đã rời khỏi hang động rồi đã cho xây dựng ở tại nơi ấy thành phố Sīhapura quý báu nhất hạng.

5/-
Lāṭaraṭṭhe tahiṃ rājā sīhaputto mahabbalo,
anusāsi mahārajjaṃ sīhapuravaruttame.

Ở nơi ấy tại xứ Lāṭaraṭṭha, người con trai của sư tử có quyền lực lớn lao trở thành vị vua và đã trị vì vương quốc rộng lớn tại thành Sīhapura quý báu nhất hạng.

6/-
Battiṃsa bhātaro honti sīhaputtassa atrajā,
vijayo ca sumitto ca subhajeṭṭhabhātarā ahū.

Ba mươi hai anh em trai là các hậu duệ của đức vua Sīhabāhu. Vijaya và Sumitta là hai anh em trai xinh đẹp và lớn nhất.

7/-
Vijayo so kumāro tu pagabbho cātikakkhalo,
karoti vilopakammaṃ atikicchaṃ sudāruṇaṃ.

Nhưng vị hoàng tử Vijaya ấy thì ngỗ ngáo và quá tàn bạo thường gây ra hành động cướp bóc, quấy rối, vô cùng kinh khiếp.

8/-
Samāgatā jānapadā negamā ca samāgatā,
upasaṅkamma rājānaṃ vijayadosaṃ pakāsayuṃ.

Dân chúng đã tụ họp lại và các thị dân đã tụ họp lại rồi đi đến gặp đức vua trình tấu về sự sái quấy của Vijaya.

9/-
Tesaṃ taṃ vacanaṃ sutvā rājā kupitamānaso,
āṇāpesi amaccānaṃ kumāraṃ nīharatha imaṃ.

Nghe lời trình báo ấy của họ, đức vua nổi giận đã ra lệnh cho các quan đại thần rằng: “Hãy đuổi gã hoàng tử ấy đi.

10/-
Paricārikā ime sabbe puttadārā ca bandhavā,
dāsidāsakammakare nīharantu janapadā.

Hãy trục xuất tất cả những người hầu cận này, luôn cả vợ con, thân thuộc, tôi trai, tớ gái, và các người làm công ra khỏi xứ sở.”

11/-
Tato taṃ nīharitvāna visuṃ katvāna bandhave,
āropetvāna te nāvaṃ vuyhittha aṇṇave tadā.

Sau đó, khi đã trục xuất và tách rời vị ấy khỏi các thân quyến, họ đã ép buộc lên thuyền rồi đã để cho lênh đênh giữa biển khơi.

12/-
Pakkamantu yathā kāmaṃ honti sabbe adassanaṃ,
raṭṭhe janapade vāsaṃ mā puna āgamicchati.

Hãy để cho họ ra đi theo như ý muốn. Tất cả bọn họ sẽ không còn được trông thấy và cũng chớ có quay trở lại sinh sống ở vương quốc xứ sở nữa.”

13/-
Kumārānaṃ ārūḷhanāvā gatā dīpaṃ adassanaṃ,
nāmadheyyaṃ tadā āsi naggadīpanti vuccati.

Chiếc thuyền chở những đứa trẻ đã đi đến hòn đảo không được nhìn thấy, khi ấy đã được gọi tên là Naggadīpa.

14/-
Mahilānaṃ ārūḷhanāvā gatā dīpaṃ avassakaṃ,
nāmadheyyaṃ tadā āsi mahilāraṭṭhanti vuccati.

Chiếc thuyền chở những người đàn bà đã đi đến hòn đảo không có mưa, khi ấy đã được gọi tên là Mahilāraṭṭha.

15/-
Purisānaṃ ārūḷhanāvā pilavantā ca sāgaraṃ,
vippanaṭṭhā disāmūḷhaṃ gatā suppārapaṭṭanaṃ.

Chiếc thuyền chở những người đàn ông đã bị mất phương hướng và lạc lối đi, trong lúc trôi dật dờ trên biển đã tấp vào bến tàu Suppāra.

16/-
Orohitvāna suppāraṃ sattasatañca te tadā,
vipulaṃ sakkārasammānaṃ akaṃsu te suppārakā.

Lúc bấy giờ, nhóm bảy trăm người ấy đã đổ bộ xuống Suppāra. Những người ở Suppāra đã thể hiện lòng rộng rãi và sự tôn vinh long trọng đối với họ.

17/-
Tesu sakkariyamānesu vijayo ca sahāyakā,
sabbe luddāni kammāni kurumānā na bujjhakā.

Trong khi được những người ấy bày tỏ lòng tôn trọng, Vijaya và đám tùy tùng, cả bọn đều là những kẻ không sáng suốt đã gây nên các hành động dã man.

18/-
Pāṇaṃ adinnaṃ paradāraṃ musāvādañca pesunaṃ,
anācārañca dussīlaṃ ācaranti sudāruṇaṃ.

Họ hành động sái quấy, không kỹ cương, vô cùng kinh khiếp như là uống rượu, trộm cắp, (đoạt) vợ người, nói láo, và nói đâm thọc.

19/-
Kakkhalaṃ pharusaṃ ghoraṃ kammaṃ katvā sudāruṇaṃ,
ujjhāyetvāna mantiṃsu khippaṃ ghātema dhuttake.

Họ đã tạo hành động tàn bạo, ác độc, ghê rợn, và vô cùng kinh khiếp. Bị gây bực bội, (dân ở đảo) đã bàn bạc rằng: “Chúng ta hãy mau mau giết chết lũ tồi tệ.”

20/-
Ojadīpo varadīpo maṇḍadīpo’ti vā ahū,
laṅkādīpo ca paṇṇatti tambapaṇṇīti ñāyati.

Hòn đảo Laṅkā (Laṅkādīpa) còn có tên là Ojadīpa, Varadīpa, Maṇḍadīpa, và được biết đến với tên quy định là Tambapaṇṇi.

21/-
Parinibbānasamaye sambuddho dīpaduttamo,
sīhabāhussā’yaṃ putto vijayo nāma khattiyo.

22/-
Laṅkādīpaṃ anuppatto jahetvā jambudīpakaṃ,
byākāsi buddhaseṭṭho so rājā hessati khattiyo.

Vào thời điểm viên tịch Niết Bàn, đấng Chánh Đẳng Giác bậc tối thượng của loài người, đức Phật tối cao đã nói rằng: “Vị Sát-đế-lỵ tên Vijaya ấy, con trai của Sīhabāhu, sau khi bị trục xuất khỏi Jambudīpa (Ấn Độ) và đến được hòn đảo Laṅkā (Tích Lan), vị Sát-đế-lỵ ấy sẽ trở thành đức vua.”

23/-
Tato āmantayi satthā sakkaṃ devānamissaraṃ,
laṅkādīpassa ussukkaṃ mā pamajjatha kosiya.

Sau đó, bậc Đạo Sư đã nhắn nhủ chúa của chư thiên Sakka rằng: “Này Kosiya, chớ có xao lãng việc quan tâm đối với hòn đảo Laṅkā.”

24/-
Sambuddhassa vaco sutvā devarājā sujampati,
uppalavaṇṇassa ācikkhi dīpaṃ ārakkhakāraṇaṃ.

Nghe theo lời nói của đấng Chánh Đẳng Giác, vị thiên vương Sujampati đã giao cho Uppalavaṇṇa phận sự hộ trì hòn đảo.

25/-
Sakkassa vacanaṃ sutvā devaputto mahiddhiko,
laṅkādīpassa ārakkhaṃ sapariso paccupaṭṭhāti.

Nghe theo lời nói của Sakka, vị thiên tử có đại thần lực cùng với tùy tùng đã thiết lập việc bảo vệ hòn đảo Laṅkā.

26/-
Tayo māse vasitvāna vijayo bhārukacchake,
ujjhāyetvā janakāyaṃ tameva nāvamāruhi.

Sau khi ngụ lại ba tháng và phiền nhiễu dân chúng ở tại Bhārukacchaka, Vijaya đã bước lên chính chiếc thuyền ấy.

27/-
Ārohitvā sakaṃ navaṃ pilavantāva sāgaraṃ,
ukkhittavātavegena nadīmūḷhā mahājanā.

Sau khi bước lên thuyền của họ và trong lúc đang di chuyển ở biển khơi, đám đông đã bị lạc lối bởi cơn gió mạnh trỗi dậy.

28/-
Laṅkādīpamupāgamma orohitvā thale ṭhitā,
patiṭṭhitā dharaṇītale atijighacchitā have.

Sau khi đến được hòn đảo Laṅkā, họ đã rời thuyền và đứng ở trên mặt đất. Khi đã ổn định ở trên bề mặt trái đất, họ đã phải chịu đựng cơn đói dữ dội.

29/-
Pipāsitā kilantāva padasāgamanaṃ akā,
ubho pāṇīhi jannūhi yogaṃ katvāna bhūmiyaṃ.

Trong lúc bị hành hạ bởi cơn khát, họ không thể lê bước chân đi và đã bò lê ở trên mặt đất bằng hai bàn tay và đầu gối.

30/-
Majjhe vuṭṭhāya ṭhatvāna pāṇī passanti sobhaṇā,
surattaṃ paṃsubhūmibhāge hatthapāṇimhi makkhite.

Sau khi trỗi dậy và đứng lên ở khu trung tâm, họ đã nhìn thấy các bàn tay sáng rực; cánh tay và bàn tay đã bị lấm lem lớp bụi đất màu đỏ sậm.

31/-
Nāmadheyyaṃ tadā āsi tambapaṇṇīti taṃ ahū,
paṭhamaṃ nagaraṃ tambapaṇṇi laṅkādīpavaruttame.

Từ đó, nơi ấy có tên là Tambapaṇṇi. Và Tambapaṇṇi là thành phố đầu tiên ở trên hòn đảo Laṅkā quý báu nhất hạng.

32/-
Vijayo tahiṃ vasanto issariyaṃ anusāsi so,
vijayo vijito cāpi sa nāmaṃ anurakena ca.

33/-
Accutagāmi upatisso paṭhaman so idh’āgato,
ākiṇṇā naranārīhi khattiyā samāgatā.

Trong khi cư ngụ tại nơi ấy, vị Vijaya ấy đã cai quản lãnh địa. Vijaya, Vijita, cùng với vị tên Anuraka, Accutagāmi, Upatisso là những người đầu tiên đi đến nơi đây. Đông đảo các vị Sát-đế-lỵ cùng với những người nam nữ đã tụ họp lại.

34/-
Tahiṃ tahiṃ disābhāge nagaraṃ māpesi khattiyo,
tambapaṇṇi dakkhiṇato nadītīre varuttame.

Vị Sát-đế-lỵ đã cho xây dựng thành phố tại khu vực các phương ở nơi này nơi nọ. (Thành phố) Tambapaṇṇi ở về phía nam, bên bờ sông tuyệt vời hạng nhất.

35/-
Vijayena māpitaṃ nagaraṃ samantā puṭabhedanaṃ,
vijito vijitaṃ māpesi so uruvelaṃ māpayi,
nakkhattanāmako’macco māpesi anurādhapuraṃ.

Thành phố đã được Vijaya cho xây dựng có phố chợ ở xung quanh. Vị Vijita ấy đã cho xây dựng thành Vijita rồi cho xây dựng thành Uruvela. Viên quan đại thần có tên Nakkhatta đã cho xây dựng thành Anurādhapura.

36/-
Accutagāmi yo nāma ujjeniṃ tattha māpayi,
upatisso upatissaṃ (nagaraṃ) suvibhattantarāpaṇaṃ.

Tại nơi ấy, vị có tên Accutagāmi đã cho xây dựng thành Ujjenī, Upatissa đã cho xây dựng thành Upatissa phía bên trong có cửa tiệm khéo được phân bố.

37/-
Iddhaṃ pītaṃ suvitthāraṃ ramaṇīyaṃ manoramaṃ,
laṅkādīpavhaye ramme tambapaṇṇimhi issaro.

38/-
Vijayo nāma nāmena paṭhamaṃ rajjamakārayi,
āgate sattavassamhi ākiṇṇo janapado ahu.

(Thành Upatissa) là thịnh vượng, giàu có, rất rộng rãi, xinh đẹp, yêu kiều. Vị chúa tể tên Vijaya đã trị vì vương quốc ở xứ Tambapaṇṇi xinh đẹp tên là Laṅkādīpa với danh nghĩa là vị sáng lập. Bảy năm trôi qua, dân chúng đã trở nên đông đảo.

39/-
Aṭṭhatiṃsati vassāni rajjaṃ kāresi khattiyo,
sambuddhe navame māse yakkhasenaṃ vidhaṃsitaṃ.

Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được ba mươi tám năm. Vào tháng thứ chín sau khi chứng quả Toàn Giác, bè lũ dạ-xoa đã bị trừ diệt.

40/-
Sambuddhe pañcame vasse nāgānaṃ damayī jino,
sambuddhe aṭṭhame vasse samāpatti samappayi.

Vào năm thứ năm sau khi chứng quả Toàn Giác, đấng Chiến Thắng đã khuất phục các con rồng. Vào năm thứ tám sau khi chứng quả Toàn Giác, Ngài đã thể nhập thiền chứng.

41/-
Imāni tīṇi ṭhānāni idhāgami tathāgato,
sambuddhe pacchime vasse vijayo idhamāgato.

Đấng Như Lai đã ngự đến nơi đây, tại ba địa điểm này. Khi đấng Toàn Giác ở vào năm cuối cùng, Vijaya đã đi đến nơi này.

42/-
Manussāvāsaṃ akārayi sambuddho dipaduttamo,
anupādisesāya buddho nibbuto upadhisaṅkhaye.

Đấng Chánh Đẳng Giác, bậc Tối Thượng của loài người đã thực hiện (hòn đảo thành) chỗ trú ngụ cho loài người. Khi chủng tử tái sanh đã hoại và mầm sống không còn, đức Phật đã Niết Bàn.

43/-
Parinibbutamhi sambuddhe dhammarāje pabhaṅkare,
aṭṭhatiṃsati vassāni rajjaṃ kāresi khattiyo.

Sau khi đức Chánh Đẳng Giác, đấng Pháp Vương, bậc Quang Minh viên tịch Niết Bàn, vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được ba mươi tám năm.

44/-
Dūtaṃ pāhesi sīhapuraṃ sumittavhassa santike,
lahuṃ āgaccha tumh’eko laṅkādīpavaruttamaṃ.

Vijaya đã phái sứ giả đi đến thành Sīhapura gặp vị tên là Sumitta bảo rằng: “Một mình ngài hãy mau chóng đi đến hòn đảo Laṅkā cao quý nhất hạng.

45/-
Natthi koci mamaccaye imaṃ rajjānusāsako,
niyyādemi imaṃ dīpaṃ mamaṃ kataparakkamaṃ.

Sau khi trẫm băng hà, không ai là người cai quản vương quốc này, trẫm bàn giao lại hòn đảo đã được trẫm ra sức kiến tạo này.”

Navamo paricchedo.
Chương thứ chín.

Bhāṇavāraṃ navamaṃ.
Tụng phẩm thứ chín.

--ooOoo--

 DASAMO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ MƯỜI

1/-
Paṇḍusakkassāyaṃ dhītā kaccānā nāma khattiyā,
vaṃsānurakkhanatthāya jambudīpā idhāgatā.

Vị công nương dòng Sát-đế-lỵ tên Kaccānā này là con gái của Paṇḍu dòng Sakka. Nàng đã từ Jambudīpa đi đến nơi đây nhằm mục đích duy trì dòng tộc.

2/-
Abhisittā khattiyābhisekena paṇḍuvāsamahesiyā,
tassā saṃvāsamanvāya jāyiṃsu ekādasatrajā.

Nàng đã được tấn phong bởi lễ đăng quang của dòng Sát-đế-lỵ trở thành hoàng hậu của Paṇḍuvāsa. Kết quả của sự chung sống ấy, họ đã sanh ra mười một người con.

3/-
Abhayo tisso ca uttiyo tisso aselapañcamo,
vibhāto rāmo ca sivo ca matto mattakalena ca.

Abhaya, Tissa, Uttiya, Tissa, Asela là thứ năm, Vibhāta, Rāma, Siva, Matta, và Mattakala.

4/-
Tesaṃ kaniṭṭhadhītā tu cittā nāmā’ti vissutā,
rañjayati jane diṭṭhe ummādacittā’ti vuccati.

Trong số các anh em, người con gái nhỏ tuổi nhất được biết tiếng với tên là Cittā. Ai khi nhìn thấy nàng đều khởi ái luyến nên nàng được gọi là Ummādacittā (Cittā mê hoặc).

5/-
Saṅkhābhisekavassena āgami upatissagāmake,
paripuṇṇatiṃsavassāni rajjaṃ kāresi khattiyo,
amitodanassa nattā te ahesuṃ satta sākiyā.

Vào năm được phong vương, vị Sát-đế-lỵ đã đi đến và đã trị vì vương quốc tròn chẳn ba mươi năm tại ngôi làng Upatissa. Những người cháu trai ấy của Amitodana gồm có bảy vị dòng Sakka.

6/-
Rāmo tisso anurādho ca mahāli dīghāvu rohini,
gāmaṇi sattamo tesaṃ lokanāthassa vaṃsajā.

Rāma, Tissa, Anurādha, Mahāli, Dīghāvu, Rohini, và Gāmaṇi là thứ bảy trong số các vị. Họ thuộc về dòng tộc của bậc Chúa Tể thế gian.

7/-
Paṇḍuvāsassa atrajo abhayo nāma khattiyo,
vīsati c’eva vassāni rajjaṃ kāresi tāvade.

Vị Sát-đế-lỵ con trai của Paṇḍuvāsa tên là Abhaya đã trị vì vương quốc đến được hai mươi năm.

8/-
Dīghāvuss’atrajo dhīro gāmaṇipaṇḍito ca yo,
paṇḍuvāsaṃ upaṭṭhanto cittakaññāya saṃvasi.

Người con trai thông minh của Dīghāvu là bậc trí tuệ Gāmaṇi. Trong lúc phục vụ Paṇḍuvāsa, vị ấy đã chung sống với công nương Cittā.

9/-
Tassa saṃvāsamanvāya ajāyi paṇḍusavhayo,
attānaṃ anurakkhanto avasi dvāramaṇḍale.

Do kết quả của sự sống chung ấy, vị tên Paṇḍu đã được sanh ra. Trong lúc bảo hộ mạng sống, vị ấy đã cư trú ở tại Dvāramaṇḍala.

Dasamo paricchedo.
Chương thứ mười.

Bhāṇavāraṃ dasamaṃ.
Tụng phẩm thứ mười.

--ooOoo--

EKĀDASAMO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT

1/-
Abhayassa vīsativasse pakuṇḍassa vīsati ahu,
sattatiṃsavasso jātiyā abhisitto pakuṇḍako.

Vào năm thứ hai mươi của triều vua Abhaya, Pakuṇḍa được hai mươi tuổi. (Sau) ba mươi bảy năm kể từ lúc hạ sanh, Pakuṇḍaka đã được phong vương.

2/-
Abhayassa vīsativasse coro āsi pakuṇḍako.

Vào năm thứ hai mươi của triều vua Abhaya, Pakuṇḍaka là kẻ đạo tặc.

3/-
Sattarasamhi vassamhi hantvāna satta mātule,
abhisitto rājābhisekena nagare anurādhapure.

Mười bảy năm sau, Pakuṇḍa đã giết chết bảy người cậu và đã được phong vương với lễ đăng quang ở tại thành Anurādhapura.

4/-
Atikkante dasavassamhi saṭṭhivassaṃ anāgate,
ṭhapesi gāmasīmāyo abhayāni gāḷhaṃ kārayi.

Trong mười năm đã trôi qua và sáu mươi năm ở vào tương lai, Pakuṇḍa đã quy định ranh giới của các ngôi làng và đã cho thiết lập chặt chẽ các sự an ninh.

5/-
Ubhato paribhuñjitvā yakkhamānusakāni ca,
anūnāni sattati vassāni pakuṇḍo rajjamakārayi.

Cai quản được cả hai loài dạ-xoa và loài người, Pakuṇḍa đã trị vì vương quốc được bảy mươi năm tròn.

6/-
Pakuṇḍassa ca atrajo muṭasīvo nāma khattiyo,
issaro tambapaṇṇimhi saṭṭhivassaṃ akārayi.

Và người con trai của Pakuṇḍa tức là vị vua dòng Sát-đế-lỵ tên Muṭasīva đã trị vì xứ Tambapaṇṇi được sáu mươi năm.

7/-
Muṭasīvassa atrajā ath’aññe dasabhātukā,
abhayo tisso nāgo ca uttimuttābhayena ca.

8/-
Mitto sivo aselo ca tisso kirena te dasa,
anulādevī sīvalī ca muṭasīvassa dhītaro.

Khi ấy, các người con trai của Muṭasīva là có mười anh em trai khác nữa. Các vị ấy là Abhaya, Tissa, Nāga, Utti, Muttābhaya, Mitta, Siva, Asela, Tissa, với Kira là mười. Anulādevī và Sīvalī là các người con gái của Muṭasīva.

9/-
Ajātasattu aṭṭhame vasse vijayo idhamāgato,
udayassa cuddasavassamhi vijayo kālaṃ kato tadā.

Vào năm thứ tám của Ajātasattu, Vijaya đã đi đến nơi ấy.[6] Vào năm thứ mười bốn của Udaya, khi ấy Vijaya từ trần.

10/-
Udayassa soḷase vasse paṇḍuvāsamabhisiñcayi,
vijayassa paṇḍuvāsassa ubho rājānamantare.

11/-
Saṃvaccharaṃ tadā āsi tambapaṇṇi arājikā,
nāgadāsassekavīse paṇḍuvāso tadā gato.

Vào năm thứ mười sáu của triều vua Udaya, Paṇḍuvāsa đã được phong vương. Vào khoảng giữa của hai vị vua Vijaya và Paṇḍuvāsa, trong thời gian một năm xứ Tambapaṇṇi là không có vua. Vào năm thứ hai mươi mốt của triều vua Nāgadāsa, khi ấy Paṇḍuvāsa băng hà.

12/-
Nāgadāse ṭhiteyeva abhayopyabhisiñcayī,
etesaṃ sattaraseva vassāni catuvīsati.

Ngay khi Nāgadāsa còn sống, Abhaya cũng đã được phong vương. Trong số hai vị ấy, (một vị) là mười bảy năm và (vị kia) hai mươi bốn năm.

13/-
Candagutte cuddase vasse gato pakuṇḍakasavhayo,
candaguttassa cuddasavasse muṭasīvamabhisiñcayi.

Vào năm thứ mười bốn của Candagutta, vị tên Pakuṇḍaka từ trần. Vào năm thứ mười bốn của Candagutta, Muṭasīva đã được phong vương.

14/-
Asokassābhisittato sattarasavasse upāgate,
muṭasīvo’ccayaṃ patto tasmiñceva ca hāyane.

Mười bảy năm đã trôi qua kể từ khi Asoka được phong vương, và trong chính năm ấy Muṭasīva đã băng hà.

15/-
Hemante dutiye māse āsāḷhinakkhattamuttame,
devānampiyo’bhisiñci tambapaṇṇimhi issaro.

Vào tháng thứ hai trong mùa lạnh, khi chòm sao Āsāḷhi ở vào điểm cao nhất, Devānampiya đã được đăng quang làm vua ở xứ Tambapaṇṇi.

16/-
Chātapabbatapādamhi veḷuyaṭṭhi tayo ahū,
setā rajatayaṭṭhi ca latā kañcanasannibhā.

Ở tại chân núi Chāta đã xuất hiện ba chồi măng tre: chồi măng tre bằng bạc là màu trắng có các sợi dây leo như là bằng vàng.

17/-
Nīlaṃ pītaṃ lohitakaṃ odātañca pabhassaraṃ,
kāḷakaṃ hoti sassirīkaṃ pupphasaṇṭhānatādisaṃ.

(Chồi măng thứ nhì) có ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, và có sự rạng rỡ tương tợ hình dáng của bông hoa.

18/-
Tathāpi pupphayaṭṭhi sā dijayaṭṭhi tatheva te,
dijā yattha yathāvaṇṇe evaṃ tattha catuppade.

Tương tợ như chồi măng tre dạng bông hoa, chồi măng tre có hình dáng của loài chim cũng giống y như thế. Loài chim có màu sắc như thế ở nơi nào, thì ở nơi ấy cũng có loài bốn chân có màu sắc tương tợ như vậy.

19/-
Hayā gajā rathā pattā āmalakā valayamuddikā,
kakudhasadisā nāma ete aṭṭha tadā muttā.

Mã ngọc, tượng ngọc, xa ngọc, diệp ngọc, vân ngọc, vòng ngọc, nhẫn ngọc, và loại giống như ngọc ấn; đây gọi là tám loại ngọc trai thời bấy giờ.

20/-
Uppanne devānampiye tassābhisekatejasā,
tayo maṇī āhariṃsu malayā ca janapadā.

Khi Devānampiya xuất hiện, do quyền lực bởi lễ đăng quang của vị ấy, dân chúng từ xứ Malaya đã mang lại ba viên ngọc ma-ni.

21/-
Tayo yaṭṭhī chātapadā aṭṭhamuttā samuddakā,
maṇayo malayā jātā rājārahā mahājanā,
devānampiyapuññena anto sattāhamāharuṃ.

Ba chồi măng tre từ chân núi Chāta, tám viên ngọc trai từ biển cả, các viên ngọc ma-ni từ xứ Malayā đã được phát sanh lên xứng đáng với vị quân vương và đã được dân chúng mang lại trong vòng bảy ngày do nhờ phước báu của đức vua Devānampiya.

22/-
Disvāna rājā ratanaṃ mahagghañca mahārahaṃ,
asamaṃ atulaṃ ratanaṃ acchariyaṃpi dullabhaṃ.

Đức vua sau khi nhìn thấy báu vật đắt giá, vô cùng xứng đáng. Vật báu là không gì bằng được, không thể so sánh, lại kỳ diệu, hiếm có.

23/-
Pasannacitto giramabbhudīrayi
ahaṃ sujāto kulino narissaro,
suciṇṇakammassa mamedisaṃ phalaṃ
bahū sahassādhika sampadāgamuṃ.

Với tâm trạng hoan hỷ, đức vua đã thốt lên lời rằng: “Trẫm là vị chúa tể của dân chúng, thuần chủng, thuộc gia tộc cao quý. Kết quả như thế này của trẫm là do nghiệp đã khéo tạo lập và có giá trị hơn cả hàng ngàn (đồng tiền).

24/-
Mayā suladdhaṃ katapuññasampadaṃ
bhave samattho labhituṃ ca ko nu kho,
bhavappatiṭṭhaṃ ratanattayaṃ vinā
na jīvituṃ me manasānubandhanaṃ.

Trẫm đã khéo đạt được sự thành tựu phước báu đã tạo. Và không ai có đủ khả năng để đạt được? Không có sự an trú vào Tam Bảo, trẫm không có sự dốc sức hết lòng để tồn tại.

25/-
Mātāpitā ca bhātā vā ñātimittā sakhā ca me,
iti rājā vicintento asokaṃ khattiyaṃ sarī.

Kể cả cha mẹ, anh em, thân quyến, bè bạn, và cộng sự của trẫm,” trong lúc suy nghĩ như thế, đức vua đã nhớ đến vị Sát-đế-lỵ Asoka.

26/-
Devānampiyatisso ca dhammāsoko narādhibhū,
adiṭṭhasahāyā ubho kalyāṇā daḷhabhattikā.

Devānampiyatissa và Asoka công chính là những người lãnh đạo dân chúng. Cả hai là những người đạo đức, có sự cống hiến vững vàng, và là bạn bè chưa từng gặp gỡ.

27/-
Atthi me piyasahāyo jambudīpassa issaro,
asokadhammo mahāpuñño sakhā pāṇasamo mama.

Trẫm có người bạn yêu quý là vị quân vương của xứ Jambudīpa, là vị Asoka công chính có phước báu dồi dào, và là người bạn được sánh bằng mạng sống của trẫm.

28/-
So rahati ratanānaṃ abhihāraṃ sampaṭicchituṃ,
ahampi dātuṃ arahāmi aggaṃ sāsanasampadaṃ.

Vị ấy xứng đáng nhận lãnh món quà tặng gồm các vật quý báu, và trẫm cũng xứng đáng để dâng tặng sự thành tựu cao quý trong Giáo Pháp.

29/-
Uṭṭhehi kattāra taramāno ādāya ratanaṃ imam,
jambudīpavhayaṃ gantvā nagaraṃ pupphanāmakaṃ,
aggaratanaṃ payacchehi asokaṃ mama sahāyakaṃ.

Này các vị thừa hành, hãy đứng lên và mau mau mang theo báu vật này đi đến thành phố tên Puppha thuộc xứ sở gọi là Jambudīpa rồi hãy trình lên báu vật quý giá này đến người bạn Asoka của trẫm.”

30/-
Mahā ariṭṭho sālo ca brāhmaṇo parantapabbato,
putto tisso ca gaṇako pāhesi caturo ime.

Đức vua đã phái đi bốn người này, đó là Mahā Ariṭṭha, Sāla, Bà-la-môn Parantapabbata, và viên kế toán Putta Tissa.

31/-
Pabhassaramaṇī tayo aṭṭhamuttā varāni ca,
patodayaṭṭhittayañc’etaṃ saṅkharatanamuttamaṃ,
bahuratanaṃ parivārena pāhesi devānampiyo,

Cùng với đoàn tùy tùng, đức vua Devānampiya đã gởi đi ba viên ngọc ma-ni sáng chói, tám hạt ngọc trai quý báu, ba chồi măng tre ấy, bảo vật hạng nhất là xa-cừ, và nhiều châu báu.

32/-
Amaccaṃ senāpatiṃ ariṭṭhaṃ sālañca parañca pabbataṃ,
puttaṃ tissagaṇakañca hatthe pāhesi khattiyo.

33/-
Chattaṃ cāmarasaṅkhañca veṭhanaṃ kaṇṇabhūsanaṃ,
gaṅgodakañca bhiṅkāraṃ saṅkhañca sivikena ca.

Vị Sát-đế-lỵ (Asoka) đã trao lại tận tay cho viên quan đại thần Ariṭṭha là tướng lãnh của quân đội, cùng với Sāla, Paranpabbata, và viên kế toán Putta Tissa chiếc lọng, quyền trượng, vương miện, và vật trang sức ở tai, bình đựng nước sông Gaṅgā (sông Hằng), tù và vỏ ốc, cùng với chiếc kiệu.

34/-
Nandiyāvaṭṭaṃ vatthamānaṃ rājābhiseke pesitā,
adhovimaṃ vatthayugaṃ aggañca hatthapuñchanaṃ.

Vòng hoa khánh hỷ, vải mặc trong lễ phong vương, xấp vải đôi không cần phải giặt, và khăn tay giá trị đã được gởi đến.

35/-
Haricandanaṃ mahagghaṃ aruṇavaṇṇamattikaṃ,
harītakaṃ āmalakaṃ imaṃ sāsanampi pesayi.

Đức vua đã gởi đến trầm hương vàng vô cùng quý giá, đất sét (để tắm) màu ráng đỏ, (hai loại trái cây) harītakaāmalaka, thêm vào lời nhắn nhủ rằng:

36/-
Buddho dakkhiṇeyyān’aggo dhammo aggo virāginaṃ,
saṅgho ca puññakkhettaggo tīṇi aggā sadevake,
imañcāhaṃ namassāmi uttamatthāya khattiyo.

“Phật Bảo xứng đáng tôn kính nhất hạng, Pháp Bảo tối thắng trong các pháp ly dục, Tăng Bảo phước điền tối thượng là ba đối tượng tối cao trong thế gian luôn cả thiên giới. Và trẫm là vị Sát-đế-lỵ tôn vinh Tam Bảo vì mục đích tối thượng.”

37/-
Pañca māse vasitvāna te dūtā caturo janā,
ādāya te paṇṇākāraṃ dhammāsokena pesitaṃ.

Bốn người sứ giả ấy đã cư ngụ năm tháng (tại Jambudīpa), rồi họ đã mang về quà biếu do đức vua Asoka công chính gởi tặng.

38/-
Vesākhamāse dvādasiyaṃ jambudīpā idhāgatā,
abhisekaṃ saparivāraṃ dhammāsokena pesitaṃ.

Từ Jambudīpa, họ đã đến được nơi đây vào ngày mười hai của tháng Vesākha cùng với vật dụng lễ đăng quang đã được gởi biếu bởi đức vua Asoka công chính.

39/-
Dutiyaṃ abhisiñcittha rājānaṃ devānampiyaṃ,
abhisitto dutiyābhiseko visākhamāse uposathe.

Họ đã làm lễ đăng quang lần thứ nhì cho đức vua Devānampiya. Lễ đăng quang lần thứ nhì đã được cử hành vào ngày lễ Uposatha (ngày trăng tròn) của tháng Vesākha.

40/-
Tayo māse atikkamma jeṭṭhamāse uposathe,
mahindo sattamo hutvā jambudīpā idhāgato.

Ba tháng sau, vào ngày lễ Uposatha của tháng Jeṭṭha, Mahinda và sáu vị nữa đã từ Jambudīpa đi đến nơi đây.

Rājābhisekakaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt phần lễ phong vương.

Ekādasamo paricchedo.
Chương thứ mười một.

Bhāṇavāraṃ ekādasamaṃ.
Tụng phẩm thứ mười một.

--ooOoo--


[1] Sau khi cai quản xứ Jambudīpa được bốn năm, Asoka đã giết chết các người anh em trai rồi đăng quang. Đến năm thứ ba của triều đại mình, đức vua Asoka mới gặp được vị sa-di Nigrodha và đã phát khởi niềm tin. Và sau đó ba năm, Mahinda đã xuất gia (giải thích dựa theo nội dung đã dịch).

[2] Nghe kể rằng trong khu rừng gần thành Pāṭaliputta, có người thợ săn đi vào rừng và đã chung sống với vị nữ thần Kuntī. Do sự sống chung ấy, nàng đã sanh ra hai người con trai: người anh tên là Tissa còn người em tên là Sumitta. Thời gian sau, cả hai đã xuất gia với trưởng lão Mahāvaruṇa, đã đạt được phẩm vị A-la-hán, sáu thắng trí, và đức hạnh (Mahāvaṃsa, V: 212-214).

[3] Lần đầu tiên xảy ra ở Kosambī lúc đức Phật còn tại tiền. Một lần khác nữa ở Vesalī sau khi đức Phật Niết Bàn được một trăm năm.

[4] Ðức vua đã đưa vị trưởng lão đến vườn hoa Rativaḍḍhana, sau đó đã rửa hai bàn chân của vị trưởng lão, thoa dầu, rồi ngồi xuống. Vị chúa tể trái đất trong lúc xem xét khả năng của vị trưởng lão đã nói rằng: “Thưa ngài, trẫm ao ước thấy được thần thông.” Khi được hỏi: “Loại gì?” đức vua nói: “Sự động đất.” Vị trưởng lão đã hỏi: “Ngài muốn nhìn thấy loại nào, toàn thể trái đất hay là một khu vực?” Lại hỏi: “Điều nào khó hơn?” “Động đất ở một khu vực là khó hơn.” Nghe vậy, đức vua đã nói lên sự mong muốn được chứng kiến việc ấy. Trong khuôn viên rộng một do tuần, vị trưởng lão đã bố trí một cỗ xe, một con ngựa, một người đàn ông, và một vại đầy nước ở tại bốn hướng. Bằng thần thông, vị trưởng lão đã giữ yên các phần nửa của mỗi vật rồi đã làm rung chuyển quả đất trong phạm vi một do tuần ấy, và đã phô bày cho đức vua đang ngồi tại nơi ấy nhìn thấy. Đức vua đã hỏi vị trưởng lão về việc bản thân có liên quan hay không liên quan đến tội ác trong việc giết chết các vị tỳ khưu của vị quan đại thần ấy. Vị trưởng lão đã thuyết giảng về chuyện Bổn Sanh Tittirajātaka cho đức vua hiểu được rằng: “Không có nghiệp báo ứng khi không có tác ý xấu” (Mahāvaṃsa, V: 257-264).

[5] Aggikkhandhopamasutta, Suttanipāta - Kinh Tập, chương 7.

[6] Cũng cần nhắc lại là một vị làm vua ở Jambudīpa (Ấn Độ), vị thứ nhì làm vua ở xứ Tambapaṇṇi (Tích Lan). Các phần kế tiếp nên được hiểu tương tợ.

-ooOoo-

Ðầu trang | 01| 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | Mục lục

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indachanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 22-08-2005