BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


THERAVĀDA
Phật Giáo Nguyên Thủy

Lời Vàng Bậc Thánh (2)
Sớ giải Trưởng Lão Ni Kệ

Bhikkhu Kusalapuñño
(Tỳ khưu Thiện Phúc)


  
 

MỤC LỤC

  Lời nói đầu
[01] 1) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Dhammadinnā
2) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Nandā
3) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Abhayamātā
4) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Ubbiri
5) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Sukkā
6) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Selā
7) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Bhaddakāpilānī
8) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Nandā (2)
9) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Bhaddākuṇḍlakesā
[02] 10) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Paṭācārā
11) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Khemā
12) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī
13) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Uppalavaṇṇā
14) Kệ ngôn của Trưởng lão ni Sumedhā

-ooOoo-

1- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI DHAMMADINNĀ
DHAMMADINNĀTHERĪGĀTHĀ

Được biết trưởng lão ni Dhammadinnā đã nói lên bài kệ này:

"Ai với tâm ước muốn
Chứng đạt quả vô sanh
Và không bị trói buộc
Trong tất cả dục lạc
Vị ấy được gọi là
Bậc ngự đến dòng trên"

Trong thời giáo pháp của đức Thế Tôn Padumuttara, vị trưởng lão ni Dhammadinnā nầy sanh trong một gia đình nghèo tại thành Haṃsavatī.

Lớn lên, nàng phải đi làm thuê để kiếm sống. Một hôm, lúc sáng sớm nàng ôm bình đi múc nước, nhìn thấy vị trưởng lão đang khất thực nàng phát tâm trong sạch, lấy phần ăn sáng của mình dâng vào bát trưởng lão với hai tay thành kính.

Sau khi nhận phần bánh của nàng, vị trưởng lão tìm một chỗ thích hợp gần đó và ngồi xuống thọ thực, thấy trưởng lão ngồi thọ dụng, nàng vô cùng hoan hỷ, chờ trưởng lão dùng xong nàng cung thỉnh Ngài đến nhà cúng dường thực phẩm, với lòng bi mẫn muốn tiếp độ nàng, nên trưởng lão đã nhận phần thực phẩm.

Suốt hôm ấy, nàng vô cùng thoả thích với thiện sự của mình. Kế đó, do biết được đức hạnh của nàng, ông bà chủ đã nhận nàng về làm con dâu trong nhà.

Một hôm, nàng cùng mẹ chồng đi đến tịnh xá nghe pháp, nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một tỳ kheo ni đệ nhất hạnh thuyết pháp, thoả thích với hình ảnh đó, nàng đã cung thỉnh bậc Đạo Sư cùng chư Tăng về nhà cúng dường đại thí. Khi Thế Tôn cùng chư Tăng thọ thực xong, nàng đến đảnh lễ dướng chân Thế Tôn phát nguyện rằng "Do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường trai thực, xin cho con thành tựu vị trí đệ nhất thuyết pháp trong giáo pháp của Đức Phật vị lai như trưởng lão ni kia vậy".

Đức Thế Tôn bèn dùng Phật nhãn quán chiếu, thấy nguyện vọng của nàng sẽ được thành tựu, để niềm hoan hỷ của nàng càng tăng trưởng thêm, bậc Đạo Sư đã tuyên bố những quả báo tốt đẹp sẽ phát sanh đến nàng và Ngài thuyết pháp tuỳ hỷ rồi cùng chư Tăng ngự về tịnh xá.

Do tích trữ nhiều thiện sự nên sau khi mạng chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, nàng tái sanh làm công chúa con của đức vua Kiṅki tại thành Bārānasī.

Nàng là con thứ sáu trong bảy người con của đức vua Kiṅki có tên là Sudhammā.

Sáu chị em của công chúa Sudhammā là: thứ nhất công chúa Samanī, thứ nhì công chúa Samanaguttā, thứ ba công chúa Bhikkhunī, thứ tư công chúa Bhikkhudāsikā, thứ năm công chúa Dhammā và người em út là công chúa Sanghadāsī.

Trong thời Đức Phật hiện tại, sáu nàng công chúa nầy trở thành những đệ tử xuất sắc của bậc Đạo Sư đó là:

1) Trưởng lão ni Khemā vị đại đệ tử tối thắng về trí tuệ.
2) Trưởng lão ni Uppalavannā vị đại đệ tử tối thắng về thần thông.
3) Trưởng lão ni Patācārā.
4) Trưởng lão ni Kuṇḍalakesī
5) Trưởng lão ni Kisāgotamī.
6) Công chúa Suddhammā trở thành trưởng lão ni Dhammadinnā.

7) Đại tín nữ Visākhā

Đức vua Kiṅki là người đệ tử thuần thành, là người đàn tín của Thế Tôn Kassapa, cho nên bảy nàng công chúa nầy cũng trở thành những tín nữ ngoan đạo và hết lòng hộ độ Tam Bảo.

Một hôm, sau khi nghe pháp nơi Thế Tôn, các nàng công chúa nầy có ý muốn xuất gia, cùng nhau đến xin phụ vương nhưng Ngài không chấp thuận, dù không được xuất gia nhưng các nàng vẫn không xao lãng lý tưởng xuất ly, thọ trì thập giới và tinh cần thực hành phạm hạnh suốt 20.000 năm. Sau khi thân hoại mạng chung, các nàng công chúa đều được sanh lên cõi Đạo Lợi.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng được sanh trong một gia đình tại thành Rājagaha (Vương Xá). Khi lớn lên nàng được gả cho trưởng lão Visākha.

Một hôm, trưởng giả Visākha đến tịnh xá nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, dứt thời pháp, ông chứng quả Bất Lai. Về đến nhà, lúc bước lên lầu Dhammadinnā đưa tay ra đón chồng nhưng Visākha không cầm tay nàng. Lúc dùng cơm Visākha cũng lặng lẽ ăn không nói một lời, Dhammadinnā cảm thấy lạ, muốn hiểu duyên cớ, nàng lên tiếng hỏi rằng: "Thưa phu quân, vì sao hôm nay chàng không cầm tay thiếp, thậm chí lúc dùng cơm chàng cũng không nói một lời, có phải thiếp đã làm điều gì sai chăng?".

Trưởng giả Visākha đáp:

"Nầy Dhammadinnā, nàng không có điều gì sai, kể từ hôm nay tôi sẽ không xúc chạm với thân phụ nữ và không nói những lời phù phiếm về vật thực vì tôi đã tỏ ngộ giáo pháp, nếu nàng thích thì cứ ở lại đây, nếu không thích nàng hãy cầm lấy những tài sản ưng ý và trở về nhà của mình".

Dhammadinnā bèn nói:

"Thưa phu quân, thiếp sẽ không nuốt đồ mửa của chàng đâu, xin chàng hoan hỷ cho phép thiếp xuất gia".

Trưởng giả Visākha đáp:

"Lành thay, nầy Dhammadinnā".

Rồi Visākha đưa nàng đến trú xứ tỳ kheo ni trên chiếc kiệu vàng. Sau khi xuất gia xong nàng thọ trì đề tài thiền quán; vì muốn sống viễn ly yên tịnh, nàng đi đến thầy tế độ thưa rằng:

"Bạch thầy, tâm con không thích chỗ đông người, ồn ào, xin thầy cho con đến một nơi yên tịnh gần làng".

Các vị tỳ kheo ni đưa nàng đến một nơi thích hợp gần làng. Sống tại đấy không bao lâu, nhờ duyên lành chín muồi và sự tinh cần tu tập, nàng chứng quả Alahán với tứ vô ngại giải.

Giai thoại nầy, nàng đã kể trong tập Apadāna:

"Lui từ hiền kiếp này
Đến một trăm ngàn kiếp
Bậc chiến thắng ma vương
Padumuttara
Ngự sanh trong thế gian
Bấy giờ ta tái sanh
Trong một gia đình nghèo
Tại Haṃsavati
Phải làm thuê để sống
Một hôm, vào buổi sáng
Trên đường đi múc nước
Ta thấy vị trưởng lão
Danh xưng Sujāta
Là bậc có trí tuệ
Thu thúc trong giới hạnh
Vừa rời khỏi tịnh xá
Dâng phần bánh của mình
Với hai tay tôn kính
Vị trưởng lão nhận xong
Ngồi dùng tại nơi ấy
Ta vô cùng hoan hỷ
Cung thỉnh Ngài về nhà
Dâng một phần thực phẩm
Sau đó gia đình chủ
Biết thiện hạnh của ta
Nhận ta làm con dâu
Rồi ta cùng mẹ chồng
Đến tịnh xá nghe pháp
Nhìn thấy đức Thế Tôn
Biểu dương một ni sư
Đệ nhất hạnh thuyết pháp
Thoả thích hình ảnh đó
Ta cung thỉnh Thế Tôn
Cùng đại chúng tỳ khưu
Về cúng dường đại thí
Khi Thế Tôn dùng xong
Phủ phục dưới chân Ngài
Ta thành tâm chú nguyện
Bấy giờ, Đấng Thiện Tuệ
Với âm giọng dịu ngọt
Ngài phán với ta rằng
Nầy tín nữ hiền thục
Với tâm tư trong sạch
Hộ độ Ta, chúng Tăng
Tìm cầu nghe diệu pháp
Tăng trưởng với đức hạnh
Ngươi hãy nên hoan hỷ
Với quả trổ như ý
Kể từ đại kiếp nầy
Đến một trăm ngàn kiếp
Có vị Chánh Đẳng Giác
Hồng danh Gotama
Ngự sanh trong thế gian
Ngươi sẽ thừa tự pháp
Của Đức Thế Tôn ấy
Là vị đại đệ tử
Tên Dhammadinnā
Khi nghe những lời ấy
Ta vô cùng hoan hỷ
An trú với từ âm
Hộ độ Đại Ẩn Sĩ
Bậc dẫn dắt đặc thù
Đầy đủ với vật dụng
Cho đến khi mạng chung
Do thiện sự khéo làm
Từ bỏ thân nhân loại
Ta sanh cõi Đạo Lợi
Đến thời kỳ giáo pháp
Thế Tôn Kassapa
Ta sanh trong hoàng tộc
Tại Bārānasī
Ta là con thứ sáu
Trong bảy nàng công chúa
Của đức vua Kiṅki
Tên là Sudhammā
Đức phụ hoàng của ta
Là đệ tử cư sĩ
Và là người đàn tín
Của Phật Kassapa
Một hôm chị em ta
Sau khi nghe diệu pháp
Do Thế Tôn thuyết giảng
Hoan hỷ muốn xuất gia
Nhưng phụ hoàng không cho
Dù vậy chị em ta
Vẫn không rời lý tưởng
Tinh cần hành phạm hạnh
Suốt hai mươi ngàn năm
Do thiện nghiệp khéo làm
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Đến kiếp cuối cùng này
Ta sanh nhà trưởng giả
Đầy đủ với dục lạc
Tại Rājagaha
Khi ta vừa trưởng thành
Tươi rạng ngời xuân sắc
Ta gả về làm vợ
Trưởng giả Visākha
Một hôm khi nghe pháp
Từ nơi Đức Thế Tôn
Chàng chứng quả Bất Lai
Trở thành bậc trí tuệ
Rồi ta xin phép chàng
Xuất gia tỳ kheo ni
Tu tập không bao lâu
Ta chứng đạt quả vị
Alahán, vô lậu
Cho đến một ngày nọ
Chàng cận sự nam ấy
Đi đến chỗ ta ở
Nêu câu hỏi thâm sâu
Ta giải đáp rành rẽ
Tất cả các câu ấy
Bậc chiến thắng ma vương
Hoan hỷ lời giảng giải
Biểu dương ta như vầy
Ta không thấy vị nào
Thù thắng hạnh thuyết pháp
Như Dhammadinnā
Hỡi nầy chư tỳ khưu
Các ngươi hãy ghi nhớ
Dhammadinnā nầy
Chính là bậc hiền trí
Ta được Đức Thế Tôn
Tán thưởng là hiền trí
Lời Phật dạy làm xong
Gánh nặng đã đặt xuống
Nhổ lên các ái hữu
Vì, đích gì xuất gia
Bỏ nhà sống không nhà
Mục đích đó ta đạt
Ta thuần thục biến hoá
Thiên nhĩ tha tâm thông
Thấu rõ các tiền kiếp
Thiên nhãn được thanh tịnh
Các lậu hoặc chấm dứ
Chặt đứt mọi trói buộc
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão ni Dhammadinnā suy nghĩ rằng:

"Tâm của ta đã chấp dứt mọi phiền não, bây giờ ta phải làm gì, ta sẽ đến Rājagaha đảnh lễ bậc Đạo Sư và tiếp độ các quyến thuộc".

Rồi trưởng lão cùng với các tỳ kheo ni trở về thành Rājagaha.

Cận sự nam Visākha hay tin trưởng lão ni Dhammadinnā trở về. Để thẩm nghiệm sự giác ngộ của trưởng lão ni, chàng đã nêu lên các câu hỏi thâm sâu vi tế, trưởng lão ni Dhammadinnā đã giải đáp rành rẽ, rõ ràng như cắt cành sen bằng con dao bén. Cận sự nam Visākha đi đến bậc Đạo Sư thuật lại cuộc luận đạo của mình với trưởng lão ni Dhammadinnā, bậc Đạo Sư đã tán thán trưởng lão ni với lời rằng:

"Nầy Visākha, tỳ kheo ni Dhammadinnā là bậc hiền trí".

Rồi bậc Đạo Sư lấy sự việc ấy làm nhân, Ngài tuyên bố giữa chư Tăng rằng: "Nầy chư tỳ kheo ni Dhammadinnā là người thù thắng hơn Ni chúng về hạnh thuyết pháp".

Và trong quá trình tu chứng, trước khi thành đạt đạo quả Alahán, trưởng lão ni Dhammadinnā đã nói lên bài kệ nầy:

"Ai với tâm ước muốn
Chứng đạt quả vô sanh
Và không bị trói buộc
Trong tất cả dục lạc
Vị ấy được gọi là
Bậc ngự đến dòng trên"

*

2. KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI NANDĀ
NANDĀTHERĪGĀTHĀ

Để giáo giới tỳ kheo ni Nandā, bậc Đạo Sư đã phán bài kệ, nhờ bài kệ này, tỳ kheo ni Nandā được chứng quả Alahán và nàng đã xem đây là bài kệ tâm đắc của mình

"Nầy Nandā hãy nhìn
Tấm thân chỗ quy tụ
Nhiều bệnh tật, bất tịnh
Đầy hôi hám khả ố
Hãy hướng tâm tu tập
An trú bất tịnh tướng"
"Hãy tu tập vô tướng
Từ bỏ mạn tuỳ miên
Do thắng tri mạn ấy
Ngươi sẽ được an tịnh"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, tỳ kheo ni Nandā nầy sanh làm con gái của một gia chủ giàu có.

Khi lớn lên, nàng được duyên lành nghe pháp nơi bậc Đạo Sư và trở thành một tín nữ nhiệt thành hộ độ Tam Bảo.

Sau khi Đức Thế Tôn níp-bàn, mọi người đóng góp chung hùn xây dựng bảo tháp tôn thờ Xá lợi, nàng đã phát tâm trong sạch cúng dường bảo tháp Xá lợi cây lọng vàng và trang hoàng với nhiều châu báu.

Do thiện sự đó, sau khi mạng chung nàng được sanh lên thiên giới.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh làm công chúa của đức vua Khemaka tại thành Kapilavatthu và có tên là Nandā.

Công chúa Nandā có một dung sắc xinh đẹp, khả ái, đáng nhìn nên nàng được mọi người ban tặng danh xưng là Abhirūpanandā (Nandā xinh đẹp).

Khi nàng trưởng thành, có một vị hoàng tử rất thương yêu nàng, trong ngày thành hôn, vị hoàng tử ấy đã mệnh chung. Đức vua và mẫu hậu cưỡng bức nàng xuất gia, dù trong lòng nàng không muốn.

Sau khi xuất gia, nàng vẫn kiêu hãnh với sắc đẹp của mình và nàng không dám đến yết kiến bậc Đạo Sư vì nghĩ rằng:

"Bậc Đạo Sư thường khiển trách về sự luyến ái xác thân và dùng nhiều phương tiện trình bày mối hiểm hoạ của xác thân nầy".

Đức Thế Tôn biết trí tuệ nàng đã thuần thục, Ngài bèn dạy Mahāpajāpati tập hợp các tỳ kheo ni lại để nghe giáo giới. Tới phiên mình, tỳ kheo ni Abhirūpanandā nhờ vị khác đi thế. Đức Thế Tôn biết được phán rằng: "Khi tới phiên tỳ kheo ni phải tự mình đi, không được nhờ vị khác".

Không thể làm trái lời dạy bậc Đạo Sư, nên nàng đã cùng với chư Ni đến nghe giáo giới. Đức Thế Tôn dùng thần thông hoá ra một thiếu nữ kiều diễm, chỉ cho một mình nàng thấy, khi Đức Thế tôn biết nàng bị cuốn hút bởi hình ảnh người thiếu nữ tuyệt trần ấy, Ngài khiến cho người thiếu nữ từ từ già nua với những thể trạng suy sụp. Nhìn thấy cảnh tượng đó, nàng bị xúc cảm mạnh, rồi để giáo hoá nàng, bậc Đạo Sư đã nói hai bài kệ rằng:

"Nầy Nandā hãy nhìn
Tấm thân chỗ quy tụ
Nhiều bệnh tật, bất tịnh
Đầy hôi hám khả ố
Hãy hướng tâm tu tập
An trú bất tịnh tướng"
"Hãy tu tập vô tướng
Từ bỏ mạn tuỳ miên
Do thắng tri mạn ấy
Ngươi sẽ được an tịnh"

Vừa dứt bài kệ, tỳ kheo ni Abhirūpanandā phát triển tuệ quán chứng quả Alahán.

Trưởng lão kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau:

"Trong thành Aruṇavati
Có một vị hoàng đế
Tên là Aruṇa
Bấy giờ ta sanh làm
Hoàng hậu của đức vua
Ta sống trong an lạc
Đầy đủ mọi vật chất
Một hôm, ngồi yên tịnh
Ta chợt nghĩ như vầy
Nay ta được hạnh phúc
Do đời trước đã gieo
Nếu ta không tạo phước
Ta sẽ rơi đoạ xứ
Chìm đắm trong đau khổ
Khi hiểu rõ như thế
Trong lòng ta hân hoan
Liền đi đến đức vua
Quỳ thưa những lời nầy
Từ khi thiếp tiến cung
Hầu hạ cho hoàng thượng
Thiếp sống trong an lạc
Đầy đủ mọi vật chất
Duy chỉ có một điều
Thiếp không được tạo phước
Xin Ngài hãy thương tình
Ban cho một sa môn
Để thiếp được cúng dường
Đức vua đã hoan hỷ
Chấp thuận lời thỉnh cầu
Ban nàng một sa môn
Với các căn thanh tịnh
Ta vô cùng hoan hỷ
Nhận bát từ tay Ngài
Đặt vào đầy cả bát
Những vật thực thượng vị
Sau đó, ta dâng Ngài
Một cặp y đặc biệt
Với thiện nghiệp khéo làm
Mạng chung từ kiếp nầy
Ta sanh cõi Đạo Lợi
Một ngàn lần được làm
Hoàng hậu của Thiên vương
Một ngàn lần được làm
Hoàng hậu Chuyển luân vương
Và nhiều lần được làm
Hoàng hậu đại hoàng đế
Cùng nhiều quả phước khác
Phát sanh từ thiện sự
Dâng y và đặt bát
Ta có màu da đẹp
Như màu của hoa sen
Ta là nữ nhân đẹp
Khả ái và đáng nhìn
Lần cuối cùng ta sanh
Trong hoàng tộc Thích Ca
Con vua Khemaka
Chủ nhân nhiều cung nữ
Khi hôn sự không thành
Phụ vương cùng mẫu hậu
Ép buộc ta xuất gia
Tu tập được bảy ngày
Ta tỏ ngộ Thánh Đế
Ta luôn được sung túc
Về y phục, vật thực
Dược phẩm cùng trú xứ
Đây chính là kết quả
Việc để bát cúng dường
Trong kiếp ba mươi mốt
Kể từ hiền kiếp nầy
Ta đã cúng dường gì
Chính do thiện sự đó
Ta không biết khổ cảnh
Ta chỉ biết cảnh giới
Cõi trời và cõi người
Cảnh giới khác không biết
Đây chính là kết quả
Việc đế bát cúng dường
Ta sanh dòng cao quý
Giàu có gia sản lớn
Không sanh dòng thấp hèn
Đây chính là kết quả
Việc để bát cúng dường
Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
Con thuần thục thần thông
Thiên nhĩ, tha tâm thông
Chứng đạt túc mạng trí
Và thiên nhãn thanh tịnh
Các lậu hoặc đoạn t6ạn
Sanh hữu mới không còn
Kính bạch bậc Đại hùng
Con với trí thấu đạt
Trong tứ vô ngại giải
Nay là kiếp cuối cùng
Con thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

*

3- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI ABHAYAMĀTĀ
ABHAYAMĀTĀTHERĪGĀTHĀ

Được biết trưởng lão ni Abhayamātā đã nói lên bài kệ rằng:

"Thưa mẫu thân khả kính
Hãy quán xác thân nầy
Từ bàn chân trở lên
Từ đấu tóc trở xuống
Chứa đầy vật bất tịnh
Hôi thối đáng nhờm gớm"
"Ta an trú như vậy
Mọi tham dục nhổ sạch
Nhiệt não được đoạn trừ
Tâm mát lạnh, tịch tịnh"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Tissa, vị trưởng lão ni nầy, sanh trong một gia đình bàlamôn.

Do từng gieo duyên lành với chư Phật quá khứ nên khi nhìn thấy Đức Phật Tissa đi khất thực, nàng phát tâm trong sạch đặt thực phẩm cúng dường.

Nhờ phước báu thành kính để bát đến Đức Phật, khi mệnh chung nàng được sanh lên thiên giới.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh tại thành Ujjenī. Vì nàng vô cùng xinh đẹp nên được ban tặng danh hiệu là hoa khôi của kinh thành và tên là Padumavatī.

Đức vua Bimbisāra (Bình Sa vương) nghe tin về sắc đẹp của nàng bèn gọi quan tế tự đến dạy rằng:

"Nầy hiền khanh, ta nghe tại thành Ujjenī có một hoa khôi tên Padumavatī, trẫm muốn gặp mặt nàng".

Quan tế tự đáp:

"Thưa vâng, tâu đại vương".

Rồi với sức mạnh chú thuật, quan tế tự triệu đến một dạ xoa tên Kumbhīra, dạ xoa dùng thần lực đưa đức vua đến thành Ujjenī, tại nhà của nàng Padumavatī.

Đêm hôm đó đức vua đã chăn gối với nàng, khi biết mình có mang, nàng đã thông báo cho đức vua biết. Đức vua nói rằng: "nếu sanh con trai nàng hãy nuôi dưỡng cho thật tốt, khi con lớn hãy dẫn vào cung cho trẫm".

Và đức vua ban cho nàng chiếc nhẫn có khắc tên, rồi Ngài trở về hoàng cung.

Thời gian thấm thoát vừa tròn mười tháng, nàng hạ sanh một hoàng nam, trong ngày lễ đặt tên, nàng đặt tên cho con là Abhaya (Vô uý).

Khi Abhaya được bảy tuổi, nàng đưa Abhaya đến yết kiến đức vua và nói với con rằng:

"Đức vua Bimbisāra là phụ vương của con".

Đức vua nhìn thấy đứa bé, trong lòng đã dâng lên một tình cảm phụ tử, Ngài bèn nhận nuôi dưỡng bảo bọc nó trong hoàng cung.

Về sau, khi đức vua Bimbisāra bị thái tử Ajātasattu sát hại, hoàng tử Abhaya bị xúc động mạnh, chán nản đời sống thế tục, chàng đến xuất gia trong giáo pháp. Nhờ tinh cần nỗ lực và trí tuệ chín muồi không bao lâu tôn giả Abhaya chứng đạt quả vị Alahán.

Một hôm Padumavatī vì thương nhớ con đã đi đến thăm viếng. Nhân cơ hội nầy tôn giả Abhaya thuyết pháp tế độ thân mẫu, sau thời pháp bà khởi niềm tin, đến xin xuất gia tại trú xứ tỳ kheo ni.

Nhờ thời pháp của tôn giả Abhaya cùng với thiện duyên giải thoát chín muồi, sau khi xuất gia tu tập không bao lâu, bà cũng được chứng quả Alahán.

Trưởng lão Abhayamāta đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau:

"Ta thấy Đức Thế Tôn
Hồng danh là Tissa
Đang ngự đi khất thực
Ta phát tâm trong sạch
Đặt thực phẩm cúng dường
Bậc Đạo Sư nhận xong
Ngài đứng tại chỗ ấy
Nói lời tuỳ hỷ rằng
Người nào tâm thành kính
Dâng thực phẩm vào bát
Người ấy khi mạng chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Ba mươi sáu lần sanh
Làm hoàng hậu Đế Thích
Năm mươi lần sanh làm
Hoàng hậu chuyển luân vương
Khi đi đến cõi người
Luôn sống trong an lạc
Rồi cuối cùng xuất gia
Đoạn tận các phiền não
Đạt vô lậu Nípbàn
Đức Thế Tôn Tissa
Sau khi phán như vậy
Ngài bay lên hư không
Như hạc chúa giữa trời
Trong kiếp chín mươi hai
Kể từ hiền kiếp này
Ta tạo thiện sự nào
Chính do thiện nghiệp đó
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Đặt bát cúng dường Phật
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi chứng quả Alahán, do tâm đắc bài kệ giáo giới của trưởng lão Abhaya, trưởng lão ni đã hân hoan xướng lên bài kệ ấy:

"Thưa mẫu thân khả kính
Hãy quán xác thân nầy
Từ bàn chân trở lên
Từ đấu tóc trở xuống
Chứa đầy vật bất tịnh
Hôi thối đáng nhờm gớm"
"Ta an trú như vậy
Mọi tham dục nhổ sạch
Nhiệt não được đoạn trừ
Tâm mát lạnh, tịch tịnh"

*

4- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI UBBIRI
UBBIRITHERĪGĀTHĀ

Bậc Đạo Sư đã cảnh tỉnh nàng với bài kệ rằng:

"Hỡi này Ubbiri
Ngươi vào rừng than khóc
Ôi Jīvā thân yêu
Ngươi hãy bình tâm lại
Hỡi này Ubbiri
Chính trong mộ địa này
Có cả tám vạn tư
Con ngươi tên Jīvā
Vậy ngươi khóc cho ai?"

Sau khi chứng quả Alahán, nàng nói lên bài kệ rằng:

"Mũi tên khó nhìn thấy
Đâm dính trong tâm con
Con đã nhổ ra được
Đoạn trừ mọi sầu muộn
Nơi đứa con đã chết"
"Nay mũi tên được nhổ
Mọi ham muốn chấm dứt
Kính bạch bậc Ẩn Sĩ
Con xin quy y Ngài
Giáo pháp cùng Tăng chúng"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, nàng sanh trong một gia đình tại thành Haṃsavati.

Một hôm, cha mẹ nàng đi đến nhà người bạn tham dự một cuộc lễ, do không kết giao với ai, nàng đành phải ở nhà.

Lúc bấy giờ, có một vị trưởng lão Alahán, đi khất thực ngang qua cửa, nàng nhìn thấy, khởi ý muốn cúng dường, bèn bước ra thưa rằng:

"Bạch Ngài, xin thỉnh Ngài vào nhà".

Khi trưởng lão vào nhà, nàng quỳ xuống đảnh lễ ngũ thể đầu địa, rồi nàng sắp đặt một sàng toạ dâng đến trưởng lão. Sau khi trưởng lão ngồi trên sàng toạ ấy, nàng nhận bát để đầy vật thực và thành kính dâng đến trưởng lão, trưởng lão nói lời tuỳ hỷ phúc chúc rồi rời khỏi nơi ấy.

Do thiện sự đó, sau khi mệnh chung nàng được sanh cõi Đạo Lợi, thọ hưởng những thiên sản đặc thù trên cõi ấy.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong một gia đình giàu có tại thành Sāvatthī, được cha mẹ đặt tên là Ubbiri.

Do phước báu quá khứ, nên nàng có dung sắc xinh đẹp khả ái. Vừa lớn lên nàng được đưa vào hậu cung của đức vua Kosola.

Vài năm sau, nàng sanh một cô công chúa rất dễ thương và đặt tên là Jīvā, đức vua Kosala thấy đứa con, Ngài rất hài lòng, bèn tấn phong nàng làm hoàng hậu. Nhưng ít lâu sau con nàng qua đời, nàng vô cùng đau khổ, ngày nào cũng đi đến mộ địa than khóc.

Một hôm, nàng đến yết kiến bậc Đạo Sư, rồi sau đó nàng đi đến bờ sông Aciravatī đứng than khóc, bậc Đạo Sư thấy vậy, Ngài ngồi tại hương thất phóng hào quang đến phán hỏi rằng:

"Vì sao con khóc?"

Nàng thưa rằng:

"Vì tiếc thương bé Jīvā nên con khóc, bạch Thế Tôn".

Bậc Đạo Sư phán rằng:

"Tại mộ địa nầy có đến tám mươi bốn ngàn con gái của ngươi bị thiêu, vậy ngươi than khóc cho ai".

Rồi Ngài chỉ cho nàng chỗ thiêu xác những đứa con đã chết và nói lên bài kệ rằng:

"Hỡi này Ubbiri
Ngươi vào rừng than khóc
Ôi Jīvā thân yêu
Ngươi hãy bình tâm lại
Hỡi này Ubbiri
Chính trong mộ địa này
Có cả tám vạn tư
Con ngươi tên Jīvā
Vậy ngươi khóc cho ai?"

Nàng dùng trí tuệ suy quán theo lời dạy, với pháp âm vi diệu của bậc Đạo Sư cùng với duyên lành chín muồi, nàng đứng tại chỗ ấy phát triển tuệ quán chứng quả Alahán.

Giai thoại sau đây được nàng kể trong tập Apadāna:

"Ta là thợ kết hoa
Tại Haṃsavatī
Một hôm, cha mẹ ta
Bận công việc ra ngoài
Ta ở nhà một mình
Nhìn thấy vị trưởng lão
Đang bộ hành khất thực
Giữa ánh nắng thiêu đốt
Ta sắp đặt sàng toạ
Bước ra thưa như vầy
Ngoài trời nắng nóng bức
Không gợn một chút gió
Đã đến thời thọ thực
Kính bạch bậc Ẩn Sĩ
Sàng toạ được lau trải
Con xin dâng đến Ngài
Xin Ngài hãy tiếp độ
Ngồi trên sàng toạ ấy
Vị trưởng lão thanh tịnh
Tâm tư khéo điều phục
Ngự lên sàng toạ ấy
Ta nhận bát của Ngài
Đặt vào đầy vật thực
Do thiện nghiệp khéo làm
Khi từ bỏ thân này
Ta sanh cõi Đạo Lợi
Rồi một toà thiên cung
Cao sáu mươi do tuần
Rộng ba mươi do tuần
Được trang hoàng rực rỡ
Với các loại châu báu
Phát sanh đến cho ta
Tám mươi lần ta làm
Hoàng hậu đức Đế Thích
Bảy mươi lần ta sanh
Hoàng hậu Chuyển luân vương
Dù sanh trong kiếp nào
Ta cũng được đầy đủ
Sung túc về tài sản
Đây chính là kết quả
Việc cúng dường sàng toạ
Ta chỉ sanh hai cõi
Cõi người và cõi trời
Không biết các cõi khác
Đây chính là kết quả
Việc cúng dường sàng toạ
Ta chỉ sanh hai dòng
Là dòng tộc vua chúa
Và dòng bàlamôn
Đây chính là kết quả
Việc cúng dường sàng toạ
Ta là người phụ nữ
Thành tựu về dung sắc
Khả ái và đáng nhìn
Đây chính là kết quả
Việc cúng dường sàng toạ
Ta luôn được hầu hạ
Cung phụng rất đầy đủ
Nuôi dưỡng thật chu đáo
Hôm nay được giác ngộ
Ta từ bỏ hoàng cung
Trở thành bậc xuất gia
Trong kiếp một trăm ngàn
Kể từ hiền kiếp nầy
Ta đã cúng dường gì
Chính do thiện sự đó
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Việc cúng dường sàng toạ
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chặt đứt mọi tróc buộc
Không còn các lậu hoặc
Việc đến yết kiến Phật
Là việc đến tốt đẹp
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Hoan hỷ với quả chứng của mình, nàng đã nói lên bài kệ rằng:

"Mũi tên khó nhìn thấy
Đâm dính trong tâm con
Con đã nhổ ra được
Đoạn trừ mọi sầu muộn
Nơi đứa con đã chết"
"Nay mũi tên được nhổ
Mọi ham muốn chấm dứt
Kính bạch bậc Ẩn Sĩ
Con xin quy y Ngài
Giáo pháp cùng Tăng chúng"

*

5- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI SUKKĀ
SUKKĀTHERĪGĀTHĀ

Một vị thọ thần sau khi được nghe pháp nơi trưởng lão ni, quá hoan hỷ pháp thoại, đã tán thán với bài kệ rằng:

"Hỡi thị dân Vương Xá
Các ngươi đang làm gì
Giống như người nằm mê
Bị say vì uống mật
Các ngươi không đi đến
Trưởng lão ni Sukkā
Nghe nàng thuyết lời Phật"
"Đối với bậc trí tuệ
Khi uống nước chánh pháp
Nước thuần tịnh bất tử
Tâm tư được an lạc
Ví như người lữ hành
Trải qua dặm đường xa
Được nước mưa mát lạnh".

Và trước khi níp-bàn hoan hỷ với quả chứng của mình, trưởng lão ni Sukkā đã nói lên bài kệ rằng:

"Tỳ kheo ni Sukkā
An trú pháp thanh tịnh
Rời bỏ mọi tham ái
Tâm tư khéo định tĩnh
Chiến thắng cả quần ma
Đạt được thân cuối cùng"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, trưởng lão ni Sukkā sanh trong một gia đình tại thành Bandhumatī.

Khi trưởng thành, nàng tháp tùng với các tín nữ khác đi đến tịnh xá nghe pháp. Sau khi nghe pháp thoại nơi bậc Đạo Sư, nàng khởi niềm tin và xin xuất gia trong giáo pháp.

Do phước duyên quá khứ, cùng với sự chuyên cần học hỏi Thánh điển Phật ngôn, nàng trở thành bậc đa văn, vị pháp sư lỗi lạc trong hàng Ni chúng.

Sống phạm hạnh cho đến khi mãn thọ, nàng được sanh lên cõi Đâu Xuất.

Nàng là người hữu duyên, hữu phúc được diện kiến và được xuất gia trong giáo pháp của đức Chánh Đẳng Gáic Sikhī, đức Chánh Đẳng Giác Vessabhū, đức Chánh Đẳng Giác Kakusandha, đức Chánh Đẳng Giác Konāgamana, đức Chánh Đẳng Giác Kassapa và do phước duyên khéo tích trữ, khi xuất gia trong giáo pháp của chư Thế Tôn ấy, nàng luôn là bậc đa văn, bậc pháp sư xuất chúng trong hàng Ni giới.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh trong một gia đình quyền quý tại thành Rājagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Sukkā.

Do duyên lành quá khứ, nên từ nhỏ nàng đã có niềm tin trong sạch nơi Tam Bảo và trở thành một tín nữ ngoan đạo.

Về sau, khi được nghe pháp nơi trưởng lão ni Dhammadinnā, với trí tuệ hiểu pháp, nàng cảm nhận rằng đời sống thế tục nhiều phiền muộn, nhiều đau khổ và nàng đã xin xuất gia nơi trú xứ của trưởng lão ni Dhammadinnā.

Do là người từng thông hiểu pháp học và pháp hành trong giáo pháp của chư Phật quá khứ, nên khi đang cạo tóc nàng đã phát triển tuệ quán chứng đạt Alahán cùng với tuệ phân tích.

Trong tập Apadāna đã ghi lại giai thoại về trưởng lão như sau:

"Trong kiếp chín mươi mốt
Kể từ hiền kiếp nầy
Có vị Chánh Đẳng Giác
Hồng danh Vipassī
Bậc có đôi mắt sáng
Tỏ ngộ tất cả pháp
Sanh lên trong thế gian
Bấy giờ ta tái sanh
Trong gia đình giàu có
Tại Bandhumatī
Lớn lên được nghe pháp
Nơi bậc Đại Ẩn Sĩ
Ta tịnh tín Tam Bảo
Từ bỏ mọi ràng buộc
Xuấg gia tỳ kheo ni
Do học pháp nghiệm pháp
Ta thành bậc đa văn
Trì pháp và biện tài
Thuyết giảng pháp lưu loát
Đem lợi ích nhiều người
Mệnh chung từ kiếp ấy
Ta sanh cõi Đâu Xuất
Trở thành vị thiên nữ
Có uy lực to lớn
Trong kiếp ba mươi mốt
Kể từ hiền kiếp nầy
Bậc chiến thắng ma vương
Hồng danh là Sikhī
Hào quang như ánh lửa
Toả sáng cả một vùng
Ngự sanh trên thế gian
Bấy giờ ta xuất gia
Trong giáo pháp của Ngài
Là ngươi thông hiểu pháp
Và xiển minh chánh pháp
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Cũng trong kiếp ba mốt
Kể từ hiền kiếp nầy
Bậc dẫn dắt thế gian
Hhồng danh Vessabhū
Ngự sanh trên thế gian
Do thiện căn dẫn dắt
Ta tu trong giáo pháp
Của bậc Đạo Sư ấy
Trở thành người trì pháp
Và xiển minh chánh pháp
Cho đến khi thọ mãn
Ta sanh lên thiên giới
Ngay trong hiền kiếp nầy
Có vị Chánh Đẳng Giác
Tên Kakusandha
Ngự sanh trên thế gian
Cũng như Chư Phật trước
Ta đi đến xuất gia
Trong giáo pháp của Ngài
Ta học pháp, trì pháp
Làm sáng tỏ chánh pháp
Mệnh chung từ kiếp trước
Ta sanh cõi Đạo Lợi
Cũng trong hiền kiếp nầy
Đức Thế Tôn hồng danh
Konāgamana
Bậc tối thượng muôn loài
Ngự sanh trên thế gian
Ta cũng được xuất gia
Trong giáo pháp của Ngài
Trở thành bậc đa văn
Trì pháp, xiển minh pháp
Và trong hiền kiếp nầy
Bậc Ẩn sĩ cao thượng
Hồng danh Kassapa
Bậc nương tựa của đời
Không có kẻ đối nghịch
Đạt tận cùng của tử
Ngự sanh trên thế gian
Rồi ta được xuất gia
Trong giáo pháp của Phật
Ta học tập Diệu Pháp
Thông thạo phép vấn đạo
Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
Con có giới thanh tịnh
Sống có tàm có uý
Thiện xảo trong tam học
Và thuyết giảng chánh pháp
Với phước lành đào tạo
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Trong kiếp cuối cùng nầy
Ta sanh nhà trưởng giả
Giàu có, nhiều châu báu
Tại Rājagaha
Một hôm, Đức Thế Tôn
Ngự vào thành Vương Xá
Với các căn thanh tịnh
Với màu da sáng chói
Như vàng ròng Siṅgī
Cùng đại chúng tỳ khưu
Đầy trang nghiêm thánh thiện
Cảm hoá bởi uy đức
Và diệu pháp của Ngài
Ta phát tâm tịnh tín
Hộ độ cúng dường Ngài
Rồi duyên lành đã đến
Ta được nghe Chánh Pháp
Nơi vị trưởng lão ni
Tên Dhammadinnā
Ta nhàm chán, xuất gia
Trong lúc đang cạo tóc
Tâm ta được giải thoát
Khỏi lậu hoặc phiền não
Do duyên hạnh quá khứ
Ta trở thành pháp sư
Thuyết pháp đến hội chúng
Một hôm với pháp thoại
Ta khiến cho nhiều người
Chứng đạt được Thánh quả
Rồi một vị thiên tử
Lãnh hội được pháp ấy
Tâm tư đầy hoan hỷ
Kính một trưởng lão ni
Đi khắp thành Vương Xá
Tán thán nàng như vầy:
Hỡi thị dân Vương Xá
Các ngươi đang làm gì
Giống như người nằm mê
Bị say vì uống mật
Các ngươi không đi đến
Trưởng lão ni Sukkā
Nghe nàng thuyết lời Phật
Đối với bậc trí tuệ
Khi uống nước Chánh Pháp
Nước thuần tịnh bất tử
Tâm tư được an lạc
Ví như người lữ hành
Trải qua dặm đường xa
Được nước mưa mát lạnh
Kính bạch Đại Ẩn Sĩ
Con thuần thục hoá thông
Thiên nhĩ, tha tâm thông
Con chứng túc mạng trí
Thiên nhãn con thanh tịnh
Các lậu hoặc chấm dứt
Sanh hữu mới không còn
Kính bạch bậc Đại Hùng
Con có trí thấu đáo
Nghĩa, pháp, ngữ, biện tài
Con thiêu đốt phiền não
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chặt đứt mọi trói buộc
Tam minh con chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi chứng quả Alahán, nàng trở thành vị pháp sư lỗi lạc, có khoảng năm trăm tỳ khưu ni đoanh vây.

Một hôm, nàng vào thành Vương Xá khất thực, dùng xong nàng trở về trú xứ tỳ kheo ni, nàng đã thuyết pháp đến hội chúng lớn đang câu hội tại đấy, pháp thoại hay đến nỗi các tỳ kheo ni như cảm thấy được nhận từ nàng những hương vị ngọt ngào, thấm nhuần nước bất tử và tất cả đều thành kính lắng tâm nghe pháp.

Lúc bấy giờ, có một vị chư thiên ngự trên cội cây cuối con đường kinh hàng của trưởng lão ni, hoan hỷ với pháp thoại của nàng, đã đi khắp nơi trong thành Vương Xá tán thán đức hạnh của nàng với hai bài kệ rằng:

"Hỡi thị dân Vương Xá
Các ngươi đang làm gì
Giống như người nằm mê
Bị say vì uống mật
Các ngươi không đi đến
Trưởng lão ni Sukkā
Nghe nàng thuyết lời Phật"
"Đối với bậc trí tuệ
Khi uống nước chánh pháp
Nước thuần tịnh bất tử
Tâm tư được an lạc
Ví như người lữ hành
Trải qua dặm đường xa
Được nước mưa mát lạnh".

Sau khi nghe những lời tán thán của vị chư thiên, dân chúng hân hoan lũ lượt kéo nhau đến trú xứ của trưởng lão ni Sukkā, lắng nghe nàng thuyết pháp với tâm thành kính và toàn thể thính chúng ấy đều nhận được những lợi ích từ pháp thoại của nàng.

Rồi khi tuổi thọ đã tận, trước giờ níp-bàn, hoan hỷ với quả chứng của mình, trưởng lão ni đã xướng lên bài kệ rằng:

"Tỳ kheo ni Sukkā
An trú pháp thanh tịnh
Rồi bỏ mọi tham ái
Tâm tư khéo định tĩnh
Chiến thắng cả quần ma
Đạt được thân cuối cùng"

*

6- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI SELĀ
SELĀTHERĪGĀTHĀ

Ác ma đến nói với trưởng lão ni Selā bài kệ như sau:

"Níp-bàn không có thật
Nàng được lợi ích gì
Với hạnh viễn ly nầy
Nàng hãy hưởng dục lạc
Chớ hối tiếc về sau".

Trưởng lão ni Selā trả lời ác ma với bài kệ như sau:

"Các dục như gươm giao
Chém nát các uẩn ta
Những dục mà ngươi gọi
Là lạc thú cuộc đời
Nay những dục lạc ấy
Với ta không hấp dẫn"
"Ta đã đoạn trừ được
Mọi hỷ tham trên đời
Và phá tan si ám
Hỡi nầy ác ma kia
Ngươi hãy biết như vậy
Hỡi nầy ác ma kia
Ngươi đã bị bại trận"
.

Ngược dòng thời gian cách đây một trăm ngàn đại kiếp, vị trưởng lão ni nầy sanh trong một gia đình giàu có tại thành Haṃsavatī.

Khi trưởng thành, cha mẹ gả nàng cho một công tử môn đăng hộ đối. Sống hạnh phúc bên chồng được nhiều trăm năm. Một hôm, chàng công tử ấy bị bịnh qua đời khiến nàng vô cùng buồn khổ, nhưng vẫn tiếp tục sống với cuộc đời goá bụa, cho đến một ngày kia, nàng nhận thấy rằng:

"Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, tuổi thanh xuân của ta cũng dần dần biến mất, sự vô thường quá ư khắc nghiệt đã cướp lấy những vật yêu quý của ta".

Khiến nàng phát sanh kinh tởm, nàng rời khỏi nhà, đi lang thang khắp nơi, từ am thất nầy đến am thất nọ, từ vu viện nầy đến tu viện kia, với mục đích duy nhất là tìm cầu chân hạnh phúc.

Một hôm, nàng dừng lại trước cội đại thọ sum xuê tươi tốt, chỗ giác ngộ của Đức Thế Tôn, nàng nhìn cội bồ đề suy nghĩ rằng:

"Nếu Đức Thế Tôn là bậc Vô thượng, không ai sánh bằng, thì xin cây bồ đề hãy biểu diễn thần lực cho tôi thấy, ngay lập tức cội bồ đề phát quang tuần tự như ý của nàng, các cành nhánh đều hoá thành vàng chiếu sáng khắp các hướng, nhìn thấy sự kỳ diệu như thế, nàng vô cùng hoan hỷ tịnh tín và thể hiện sự tôn kính bằng cách ngồi chấp hai tay trên đầu tại đấy suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, nàng đã thành kính cúng dường năm ngọn đèn đến cội bồ đề. Do phước nghiệp ấy, sau khi mệnh chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh làm công chúa con của đức vua Ālāvi, tên là Selā và nàng còn một tên gọi nữa là Ālāvikā (người xứ Ālāvī).

Khi bậc Đạo Sư cảm hoá được đức vua Ālāvī, Ngài bèn giao y bát cho vua cầm rồi ngự vào thành Ālāvī cùng đức vua.

Công chúa đi yết kiến bậc Đạo Sư và đức vua. Sau khi nghe pháp, nàng khởi niềm tin trong sạch nơi Tam bảo và trở thành một tín nữ mộ đạo.

Một hôm, nàng phát sanh động tâm và đến xin xuất gia nơi các tỳ kheo ni, nhờ duyên lành tròn đủ, trí tuệ chín muồi nàng đã chứng đạt Alahán ngay sau đó.

Trưởng lão kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna:

"Bấy giờ ta chợt hiểu
Vô thường đang xói mòn
Trên thân thể của ta
Ta nhàm chán tất cả
Đi lang thang khắp nơi
Trong Haṃsavatī
Để tìm chân hạnh phúc
Ta thấy cội bồ đề
Trong ngày trăng hạ tuần
Với niềm tin trong sạch
Ta ngồi xuống tại đấy
Chấp hay tay trên đầu
Tâm tư đầy thành kính
Và ta nghĩ như vầy
Nếu Phật là Vô thượng
Không có ai sánh bằng
Thì xin cội bồ đề
Hãy thị hiện thần lực
Hãy phát toả hào quang
Cho ta ngay bây giờ
Tức thì cội cây ấy
Chiếu sáng như ý ta
Hào quang ấy màu vàng
Toả sáng khắp các hướng
Ta ngồi dưới cội cây
Suốt bảy ngày bảy đêm
Khi đến ngày thứ bảy
Ta cúng năm ngọn đèn
Đặt chung quanh nơi ấy
Bấy giờ đèn của ta
Chiếu sáng tận mặt trời
Do thiện nghiệp khéo làm
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Phước kết quả đến ta
Một toà thiên cung đẹp
Tên là Ngũ Đăng Cung
Cao một trăm do tuần
Khắp thiên cung toả sáng
Với ánh sáng ngọn đèn
Người xoay mặt hướng đông
Nếu muốn ta sẽ thấy
Cả phía trên, phía dưới
Và luôn cả chiều ngang
Nếu muốn ta sẽ thấy
Nghiệp tốt và nghiệp xấu
Mà người đang thực hiện
Dù ở tận nơi nào
Cây cối hoặc núi đồi
Không ngăn cản mắt ta
Tám mươi lần ta sanh
Hoàng hậu đức Đế Thích
Một trăm lần ta làm
Hoàng hậu Chuyển Luân Vương
Ta đến sanh hữu nào
Dù cõi người hay trời
Đều có đèn chiếu sáng
Chung quanh chỗ ta ở
Mệnh chung từ thiên giới
Tái sanh vào mẫu thai
Mắt của ta không khép
Nhiều ngọn đèn toả sáng
Trong sanh đường của ta
Đây chính là kết quả
Việc lúc năm ngọn đèn
Đến kiếp cuối cùng nầy
Do duyên lành tròn đủ
Ta chứng đạt vô sanh
Lúc chỉ vừa bảy tuổi
Biết được đức hạnh ta
Đạo sư truyền cụ túc
Dù nhập thiền ở đâu
Gốc cây hay nhà trống
Lâu đài hay mộ địa
Đều có năm ngọn đèn
Chiếu sáng chung quanh ta
Thiên nhãn ta thanh tịnh
Thiện xảo trong thiền định
Chứng đạt các thắng trí
Đây chính là kết quả
Việc cúng năm ngọn đèn
Phạm hạnh ta đã thành
Việc nên làm đã làm
Giờ không còn lậu hoặc
Kính bạch bậc Đại Hùng
Người tên là Ngũ đăng
Xin lễ dưới chân Ngài
Trong kiếp một trăm ngàn
Kể từ hiền kiếp nầy
Ta cúng dường vật nào
Do việc cúng dường ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Việc cúng năm ngọn đèn
Ta thiêu đốt phiền não
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chặt đứt mọi trói buộc
Chấm dứt các lậu hoặc
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi chứng quả Alahán, nàng trú tại Sāvatthī.

Một hôm, sau khi thọ thực xong nàng rời khỏi thành Sāvatthī, đi đến rừng Andha để chỉ tịnh ban ngày, dưới một cội cây.

Lúc bấy giờ, ác ma muốn phá sự độc cư an tịnh của nàng, dưới hình thức một người lạ, đã đến và nói bài kệ nầy:

"Níp-bàn không có thật
Nàng được lợi ích gì
Với hạnh viễn ly nầy
Nàng hãy hưởng dục lạc
Chớ hối tiếc về sau".

Nghe những lời ấy, vị trưởng lão ni nghĩ rằng:

"Đây là ác ma muốn quyến rũ ta trở về với dục lạc, không cho ta đi đến Níp bàn, nó không biết rằng ta đã đoạn tận các lậu hoặc, quả là si mê, thôi được ta sẽ cho nó sáng mắt, nàng bèn nói lên hai bài kệ rằng:

"Các dục như gươm giao
Chém nát các uẩn ta
Những dục mà ngươi gọi
Là lạc thú cuộc đời
Nay những dục lạc ấy
Với ta không hấp dẫn"
"Ta đã đoạn trừ được
Mọi hỷ tham trên đời
Và phá tan si ám
Hỡi nầy ác ma kia
Ngươi hãy biết như vậy
Hỡi nầy ác ma kia
Ngươi đã bị bại trận"
.

*

7- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI BHADDAKĀPILĀNĪ
BHADDAKĀPILĀNĪTHERĪGĀTHĀ

Được biết trưởng lão ni Bhaddakāpilānī đã nói lên bài kệ rằng:

"Trưởng lão đại Ca Diếp (Mahākassapa)
Là con của Thế Tôn
Là bậc thừa tự pháp
Tâm tư khéo định tĩnh
Thấu rõ các tiền kiếp
Thấy nhàn cảnh khổ cảnh
Đạt đến bờ vô sanh
Viên thành nhờ thắng trí
Là Ẩn sĩ, phạm chí
Tỏ ngộ được tam minh
Bhaddakāpilāni
Cũng chứng đạt tam minh
Như Ngài Kassapa
Đã đoạn tận sự chết
Đây là thân cuối cùng
Chiến thắng cả quần ma"
"Thấy nguy hại ở đời
Hai chúng tôi xuất gia
Trở thành bậc lậu tận
Đã điều phục được mình
Dập tắt mọi ái dục
Đạt tịch tịnh (giải thoát)"

Thưở quá khứ, trong thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, trưởng lão ni nầy sanh trong một gia đình giàu có tại thành Haṃsavatī.

Khi đến tuổi trưởng thành, nàng được gả cho trưởng lão Videha. Videha là một cận sự nam thuần thành trong giáo pháp, chàng thường xuyên đi đến tịnh xá nghe Phật thuyết pháp.

Một hôm, lúc đến nghe pháp, chàng nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị đại thinh văn đệ nhất hạnh đầu đà, thoả thích hình ảnh đó, nghe pháp xong chàng cung thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Tăng về nhà cúng dường suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy khi Đức Thế Phật cùng chư Tăng thọ thực xong, tay rời khỏi bát, chàng trưởng giả đến quỳ dưới chân Thế Tôn chú nguyện vị trí ấy.

Sau khi dùng Phật nhãn quán chiếu, Đức Thế Tôn đã phán bài kệ rằng:

"Nầy cận sự nam tín thành, con hãy hoan hỷ, trong một trăm ngàn kiếp nữa vào thời kỳ giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác Gotama, nguyện vọng của con sẽ được thành tựu, con sẽ là người thừa tự giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy có tên là Kassapa".

Nghe lời tiên tri của Bậc Đạo Sư, trưởng giả Videha vô cùng hoan hỷ, chàng tích cực hộ độ Đức Phật cùng chư Tăng đầy đủ với những vật dụng.

Nói về vợ của trưởng giả Videha,s au khi về làm vợ của Videha, nàng hết lòng phụng sự chồng, thực hiện đầy đủ những bổn phận đối với chồng và được trưởng giả rất mực thương yêu. Những lúc rảnh rỗi nàng thường cùng với trưởng giả đi nghe pháp và trở thành một tín nữ ngoan đạo.

Một ngày nọ, lúc đến tịnh xá nghe pháp, nàng thấy Đức Thế Tôn tán thán một vị tỳ kheo ni thù thắng với hạnh túc mạng thông, hoan hỷ với vị trí ấy, trong những dịp cùng chồng cúng dường, nàng đã âm thần chú nguyện cho mình.

Khi Đức Thế Tôn níp bàn, trưởng giả Videha đã kêu gọi quyến thuộc cùng bạn bè họp lại xây dựng một ngôi bảo tháp cao bảy do tuần, thành tựu bằng các châu báu chói như ánh mặt trời và rực rỡ như cây chúa trổ hoa để cúng dường bậc Đạo Sư.

Lúc bấy giờ, vợ trưởng giả Vedeha cho bảy người thợ làm bảy trăm ngọn đèn, lấy một loại dầu đặc biệt có hương đổ vào đầy bình, lửa từ bảy trăm ngọn đèn cháy sáng rực để cúng dường Đức Thế Tôn. Rồi nàng cho thợ làm bảy trăm cái bình cúng dường bảo tháp cho trồng hoa xung quanh, cho trang hoàng cờ xí và bảo tháp được thành tựu bằng vật báu này, chiếu sáng rực rỡ như ánh mặt trời.

Nàng đã cùng với chồng cúng dường hộ độ đến Đức Phật và chư Tăng, thực hiện nhiều thiện sự cho đến khi mệnh chung, cả hai được sanh lên thiên giới. Trong những kiếp luân chuyển sanh tử, nàng đã gắn bó với chồng như gốc với thân vậy.

Nàng đã kể lại những giai thoại nầy trong tập Apadāna:

Vào thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, tại thành Bandhumatī, có một vị bàlamôn được nhiều người ca tụng là người tốt, là người giàu có, đầy đủ với đức hạnh và tài sản. Nhưng sau đó chàng bị suy sụp tài sản, rơi vào nghèo khó.

Lúc bấy giờ, ta là vợ của vị bàlamôn ấy, thỉnh thoảng ta cùng chồng đi đến nghe pháp nơi Đức Thế Tôn.

Một hôm, chàng đến tịnh xá nghe Thế Tôn thuyết pháp, dứt thời pháp chàng phát tâm trong sạch hoan hỷ cởi tấm vải đang choàng trên người, dâng đến bậc Đạo Sư và trở về nhà với độc nhất một tấm vải che thân. Khi về đến nhà, chàng mới nói với ta rằng:

"Mình ơi! Mình hãy tuỳ hỷ phước, tôi đã dâng tấm vải choàng đến Thế Tôn rồi!"

Nghe vậy, ta chấp tay tỏ lời tuỳ hỷ rằng:

"Lành thay thưa phu quân, thiếp rất hoan hỷ việc cúng dường của chàng".

Và hai vợ chồng cùng chia xẻ nhau niềm vui phước báu.

Khi mệnh chung ta và chàng đều được sanh lên thiên giới. Dứ t tuổi thọ trên thiên giới, chàng được sanh làm vua trị vì tại thành Bārāṇasī, còn ta tái sanh làm hoàng hậu của vua, do duyên tiền kiếp nên đức vua rất sủng ái ta.

Một hôm, đức vua nhìn thấy tám vị Phật Độc Gigác đang đi khất thực, Ngài đã đặt vào bát chư Phật những vật thực thượng vị. Sau đó, đức vua đã xây dựng một phước xá đặc biệt, cho trang hoàng xinh đẹp rồi dâng đến chư Phật Độc Giác.

Đức vua cùng ta hết lòng hộ độ chư Độc Giác Phật và trị vì đất nước theo chánh pháp.

Mệnh chung từ kiếp ấy, đức vua được sanh trong một gia đình bàlamôn giàu có tại thành Bārāṇasī còn ta được sanh làm vợ của chàng.

Một hôm, sau khi cãi vã với cô em chồng, nhìn thấy cô ta để bát cúng dường Đức Phật Độc Giác với tâm bực tức đố kỵ ta suy nghĩ rằng:

"Nếu cô ta đặt bát cúng dường Đức Phật, thì cô ta sẽ được thành tựu tài sản, sao ta có thể để cho cô ấy đạt được điều đó".

Nghĩ vậy, ta bèn đi đến lấy bát từ tay Đức Phật, trút bỏ tất cả thực phẩm trong bát, rồi múc bùn đổ đầy lại, dâng đến Đức Phật, khi làm như vậy ta bị nhiều người chỉ trích rằng:

"Hỡi kẻ ngu si kia, Đức Độc Giác có lỗi gì với ngươi chăng, sao ngươi lại làm như vậy?"

Cảm thấy hổ thẹn với những lời ấy, ta đi đến xin bát, đổ bùn ra rửa sạch rồi lau khô bằng bột thơm, xong ta lấy những thực phẩm thượng vị đặt đầy vào bát, dâng đến Đức Độc Giác.

Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, ta tái sanh làm con gái của vị trưởng giả giàu có tại thành Bārāṇasī, do việc múc bùn đổ vào bát Đức Phật Độc Giác, nên thân thể ta có mùi hôi thối, khiến mọi người xa lánh ta.

Khi Đức Thế Tôn Kassapa níp bàn, chồng ta, cùng nhiều người lo xây dựng bảo tháp, ta đã gom góp tất cả những tư trang, làm thành một phiến vàng và tẩm phiến vàng ấy với một loại nước thơm đặc biệt, được tinh chế từ bốn loại hương liệu đặt nơi bệ thờ của bảo tháp. Do phước lành nầy, khiến mùi hôi từ thân thể ta tự biến mất.

Mệnh chung, ta cùng chàng được sanh lên thiên giới, mãn thọ từ thiên giới, chàng tái sanh trong một gia đình giàu có tại xứ Kāsī, tên là Sumitta. Khi lớn lên ta được gả về làm vợ chàng, chàng rất thương yêu ta và gia đình ta thật là hạnh phúc.

Trong kiếp nầy, ta và chàng đã dâng Đức Phật Độc Giác một tấm vải đặc biệt và thường xuyên cúng dường hộ độ vật dụng đến Ngài.

Sau kiếp sống ấy, chàng tái sanh tại làng Koliya, do duyên nợ tiền kiếp ta cũng được làm vợ chàng.

Lúc bấy giờ, chàng đã lãnh đạo năm trăm gia đình làng Koliya, hộ độ năm trăm vị Phật Độc Giác và xây dựng những phước xá, cung thỉnh quý Ngài an cư ba tháng mùa mưa.

Trong suốt ba tháng, gia đình ta cùng các dân làng đã cúng dường hộ độ đầy đủ tứ vật dụng đến chư Phật. Khi ra hạ, những giga đình tại đây đã cùng nhau dâng tam y đến quý Ngài.

Mạng chung từ kiếp ấy, chàng tái sanh làm vua tên là Nanda, trị vì một đại quốc độ và có nhiều uy lực.

Lúc bấy giờ, ta được làm hoàng hậu của vua và là chỗ sủng ái của Ngài, Ngài là một vị vua nhân từ hiền đức, rất thương yêu dân, Ngài hướng dẫn mọi người sống theo thiện pháp. Nhờ tận tâm hết lòng chăm lo đất nước nên dân chúng thời ấy sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng và ta cũng rất hạnh phúc bên Ngài.

Khi tuổi thọ đã mãn, Ngài được sanh làm vua Brahmadatta trị vì tại thành Bārāṇasī và ta cũng được làm hoàng hậu Ngài.

Trong kiếp nầy, đức vua và ta đã thỉnh năm trăm vị Phật Độc Giác về ngụ tại vườn thượng uyển và hằng ngày cúng dường hộ độ thực phẩm đến quý Ngài.

Khi chư Phật lần lượt níp bàn, đức vua và ta xây dựng bảo tháp tôn thờ xá lợi của quý Ngài.

Chứng kiến từng bậc khả kính tuần tự ra đi theo định luật vô thường, ta và đức vua bị xúc động mạnh, rồi quyết định từ bỏ tất cả, đi vào vườn thượng uyển xuất gia làm đạo sĩ.

Nhờ tu tiến và chứng đạt thiền tứ vô lượng tâm, nên sau khi mạng chung ta và đức vua được sanh lên phạm thiên giới.

Khi hết tuổi thọ từ cõi phạm thiên ta sanh trong một gia đình bàlamôn Kosiya tại thành Sāgala.

Cha của ta tên là Kapila, mẹ tên là Sucīmati sống tại thị trấn Madda. Do là tiểu thư độc nhất trong một gia đình giàu có nên từ nhỏ ta được nuôi dưỡng rất chu đáo và được nhiều người hầu hạ.

Do tích trữ nhiều phước lành, nên ta có một dung sắc xinh đẹp, khả ái đáng nhìn. Khi trưởng thành do duyên nợ nhiều kiếp, ta được gả về làm vợ cho bàlamôn trưởng giả Pipphali tại làng Mahātittha.

Một hôm, khi đi khảo sát những thưở ruộng, bấy giờ nhằm mùa dọn đất, những người nông dân cày xới đất lên, cuốn theo những loài côn trùng nằm ngổn ngang, Pipphali nhìn thấy những đàn chim sà xuống xớt lấy những con côn trùng đang hoảng hốt lẩn trốn, bị động tâm bởi những cảnh tượng ấy, chàng trở về nhà với nét mặt buồn bã ủ dột, khi ta đến vấn an, chàng mới nói rằng:

"Này hiền thê! Toàn bộ gia sản này ta giao lại cho nàng, ta không thể tiếp tục sống đời cư sĩ nữa, ta sẽ xuất gia".

Nghe vậy, ta nói với chàng:

"Thưa phu quân! thiếp sẽ không nhận gia sản nầy đâu vì thiếp cũng có ý định xuất gia".

Thế là ta và chàng từ bỏ mọi ràng buộc của thế tục, trở thành bậc xuất gia.

Lúc bấy giờ, hệ thống Ni chúng chưa được thành lập, ta đã sống tại trú xứ du sĩ năm năm. Khi bậc Đạo Sư cho phép nữ giới xuất gia, ta đã đến thọ cụ túc giới nơi trưởng lão ni Mahāpajāpati Gotamī (dì mẫu Phật), tu tập không bao lâu, ta chứng đạt quả vị Alahán.

Sau khi chứng quả Alahán, do hạnh nguyện quá khứ và do nỗ lực hiện tại, trưởng lão ni Bhaddakāpilāni trở thành vị thù thắng về túc mạng thông. Do biết rõ hạnh nguyện và thành quả của nàng, nhân một buổi hội họp của chư Tăng tại Jetavanavihāra (Kỳ viên tịnh xá), bậc Đạo Sư đã biểu dương nàng là vị đệ nhất về túc mạng thông trong hàng Ni chúng.

Một hôm, để tán thán đức hạnh của trưởng lão Mahākassapa và xác chứng quả vị giải thoát của mình, trưởng lão ni Bhaddakāpilānī đã nói lên bài kệ rằng:

"Trưởng lão đại Ca Diếp
Là con của Thế Tôn
Là bậc thừa tự pháp
Tâm tư khéo định tĩnh
Thấu rõ các tiền kiếp
Thấy nhàn cảnh khổ cảnh
Đạt đến bờ vô sanh
Viên thành nhờ thắng trí
Là Ẩn sĩ, phạm chí
Tỏ ngộ được tam minh
Bhaddakāpilāni
Cũng chứng đạt tam minh
Như Ngài Kassapa
Đã đoạn tận sự chết
Đây là thân cuối cùng
Chiến thắng cả quần ma"
"Thấy nguy hại ở đời
Hai chúng tôi xuất gia
Trở thành bậc lậu tận
Đã điều phục được mình
Dập tắt mọi ái dục
Đạt tịch tịnh (giải thoát)"

*

8- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI NANDĀ (2)
NANDĀTHERĪGĀTHĀ

Được biết trưởng lão ni Nandā đã nói lên bài kệ rằng:

"Khi ta không phóng dật
Như lý quán thân nầy
Thấy cả nội ngoại phần
Theo thực tánh của nó
Ta phát sanh nhàm chán
Nội tâm được ly tham
Không dễ duôi, không luỵ
Đạt an bình, tịch tịnh"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong hoàng tộc Thích Ca và được đặt tên là Nandā.

Do có dung sắc xinh đẹp, nên nàng được mọi người ban tặng cho một danh xưng nữa là Sundarīnandā (hoa khôi Nandā).

Khi Đức Thế Tôn giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác, Ngài tuần tự ngự trở về thành Kapilavatthu để tiếp độ quyến thuộc, Ngài đã độ cho thái tử Nanda và thái tử Rāhula xuất gia. Khi đức vua Suddhodana (Tịnh Phạn) níp bàn, dì mẫu Mahāpajāpatigotamī và nàng Yasodhara (mẹ Rāhula) xuất gia, Nandā suy nghĩ rằng:

"Hoàng huynh của ta đã từ bỏ ngôi vị chuyển luân vương, xuất gia trở thành bậc Toàn Giác, bậc tối thượng trong thế gian, thái tử Rāhula con của Ngài cũng đã xuất gia, hoàng huynh Nanda, mẫu hậu Mahāpajāpatigotamī cùng hoàng tỷ Yasodhara cũng đã xuất gia hết rồi, vậy ta ở nhà làm gì? Thôi ta hãy xuất gia".

Như vậy nàng xuất gia không phải vì lòng tin mà chính vì tình cảm quyến luyến quyến thuộc. Mặc dù đã xuất gia nhưng nàng vẫn tự kiêu với thân sắc, sợ bậc Đạo Sư qưở trách nên nàng không đến yết kiến Ngài.

Trưởng hợp của nàng cũng tương tự như câu chuyện của tỳ kheo ni Abhirūpanandā, chỉ khác là khi nàng thấy một thiếu nữ mỹ miều do Đức Phật hoá hiện và chứng kiến nhan sắc ấy từ từ bị biến dịch, bị tàn lụi, nàng vô cùng kinh cảm. Nhờ duyên lành tròn đủ, nàng lấy đề mục ấy suy quán dựa trên tam tướng vô thường, khổ vô ngã, khi biết tâm nàng đã chuyên chú trên đề mục, bậc Đạo Sư bèn giáo hoá nàng bằng bài kệ rằng:

"Nầy Nandā, hãy nhìn
Thân nầy đầy bịnh hoạn
Bất tịnh và hôi thối
Hãy hướng tâm an trú
Trên đề mục bất mỹ
Thân nầy như thế nào
Thân của ngươi cũng vậy
Thân ngươi như thế nào
Xác thân nầy cũng vậy
Thân nầy đầy uế trược
Mùi hôi thối xông lên
Chỉ kẻ ngu ưa thích
Quán thân nầy như vậy
Đêm ngày không xao lãng
Không lâu sẽ thấu triệt
Bằng trí tuệ của mình"
.

Dựa trên lời dạy bậc Đạo Sư, nàng phát triển tuệ quán, chứng quả Dự Lưu, và để giúp nàng đạt được những quả vị cao hơn, bậc Đạo Sư dạy tiếp rằng:

"Này Nandā, trong tấm thân nầy không có một chút gì tinh tuý cả, chỉ là một đống xương, tô đắp bằng máu thịt, bị già chết chi phối".

Như được nói trong tập Pháp cú rằng:

"Thân nầy làm bằng xương
Tô đắp bằng máu thịt
Tại đây già và chết
Mạn, lừa đảo ngự trị".

Vừa dứt pháp thoại, nàng đã chứng quả Alahán.

Nàng đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau:

"Trong kiếp một trăm ngàn
Kể từ hiền kiếp nầy
Bậc chiến thắng ma vương
Padumuttara
Bậc giác ngộ các pháp
Sanh lên trong thế gian
Ngài là bậc thiện xảo
Trong phương pháp giáo hoá
Ngài chỉ dạy chúng sanh
Cho tỏ ngộ chân lý
Ngài tiếp độ muôn loài
Vượt qua bể luân hồi
Với lòng đầy bi mẫn
Ngài ban rải lợi ích
Ngài là Đại Ẩn Sĩ
Có hào quang toả sáng
Như ánh sáng vàng ròng
Đầy đủ đại nhân tướng
Tuổi thọ trăm ngàn năm
Với chừng ấy thọ mạng
Ngài đã giúp nhiều người
Thoát khỏi vòng sanh tử
Bấy giờ ta tái sanh
Trong gia đình trưởng giả
Với tài sản to tát
Tại Haṃsavatī
Rồi ta đến lễ Phật
Nghe Ngài giảng Chánh pháp
Ta khởi tâm tịnh tín
Cung thỉnh bậc Đạo Sư
Cùng đại chúng tỳ kheo
Về cúng dường trai phạn
Sau buổi lễ đại thí
Quỳ dưới chân Thế Tôn
Ta hướng tâm phát nguyện
Trở thành vị đệ nhất
Về phương diện chứng thiền
Trong thời Phật vị lai
Bấy giờ đức Thiện Thệ
Bậc Nương tựa tam giới
Đã nói với ta rằng
Nguyện vọng nầy của ngươi
Chắc chắn sẽ thành tựu
Trải qua trăm ngàn kiếp
Trong thời kỳ giáo pháp
Của Đức Chánh Đẳng Giác
Hồng danh Gotama
Ngươi sẽ thừa tự Pháp
Của Đức Thế Tôn ấy
Sẽ là nữ thinh văn
Với danh xưng Nandā
Đến giáo pháp không lâu
Cũng chứng ngộ Thánh Đế
Khiến Đạo Sư hoan hỷ
Với quả vị vô sanh
Đạt lậu tận níp bàn
Nghe những lời tiên tri
Ta vô cùng hoan hỷ
Càng tích cực hộ độ
Thế Tôn và Tăng chúng
Sống câu hữu với từ
Thương xót cả muôn loài
Do thiện nghiệp khéo làm
Sau khi ta mạng chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Mãn thọ cõi Đạo Lợi
Ta sanh cõi Dạ Ma
Mệnh chung cõi Dạ Ma
Ta sanh cõi Đâu Xuất
Chết từ cõi Đâu Xuất
Ta sanh cõi hoá lạc
Mãn thọ cõi hoá lạc
Ta sanh cõi tha hoá
Và do thiện nghiệp ấy
Nhiều kiếp ta được sanh
Làm hoàng hậu thiên vương
Hoàng hậu Chuyển Luân vương
Và hoàng hậu Đại đế
Dù sanh ở loại nào
Ta luôn được an lạc
Trong kiếp cuối cùng nầy
Ta sanh làm công chúa
Của đức vua Tịnh Phạn
Tại Ca tỳ la vệ (Kapilavatthu)
Trong ngày ta chào đời
Khiến quyến thuộc hoan hỷ
Nên đặt tên Nandā
Và khi ta lớn lên
Thành tựu về dung sắc
Khiến mọi người khen tặng
Sundarīnandā
(nàng Nandā xinh đẹp)
Hoàng huynh ta xuất gia
Trở thành bậc Chánh Giác
Cao quý trong tam giới
Một vị hoàng huynh nữa
Cũng thành bậc Lậu tận
Chỉ còn lại mình ta
Sống cuộc đời cư sĩ
Mẹ ta huấn thị rằng
Hỡi nầy con thân yêu
Con sanh dòng Thích Ca
Là em của Đức Phật
Nanda xuất gia rồi
Con được lợi ích gì
Với đời sống tại gia
Hiện giờ con son trẻ
Thành tựu về dung sắc
Được mọi người khen ngợi
Rồi trải qua không lâu
Cũng bị già tàn phá
Hiện nay con không bệnh
Nhưng rồi cũng sẽ bệnh
Con sống dù bao lâu
Cuối cùng cũng phải chết
Thế nên con hãy bỏ
Thế tục nhiều bụi phiền
Chớ hệ luỵ trong sắc
Bậc trí thường chê trách
Hãy sống đời phạm hạnh
Dù mê thời xuân sắc
Nhưng khi nghe mẹ dạy
Ta cũng đi xuất gia
Hình tướng ta thành tựu
Nhưng tâm lý chưa có
Khi mẹ dạy pháp hành
Nghe xong ta gác lại
Thế rồi, bậc Chiến Thắng
Với tấm lòng đại bi
Mục đích tiếp độ ta
Ngài hoá hiện thiếu nữ
Rất xinh đẹp, kiều diễm
Khả ái hơn ta nhiều
Nhìn nàng ta cuốn hút
Trong lòng ta nghĩ rằng
Hãy đến nầy người đẹp
Nàng quả thật rất đẹp
Khiến mắt ta dính vào
Hãy nói điều nàng muốn
Và hãy xưng tên họ
Cho tôi được tỏ tường
Bây giờ chưa phải lúc
Để ta hỏi điều này
Xin nàng cho hãy cho tôi
Được tựa vào người nàng
Cho tôi được ngủ chung
Dầu chỉ trong chốc lát
Kế đó, nàng đi đến
Nằm tựa trên mình ta
Một vật cứng từ đâu
Rồi trúng vào mặt nàng
Mặt bị sưng phồng lên
Từ từ nó vỡ ra
Đầy cả mủ và máu
Hôi thối như xác chết
Khắp thân thể sưng phồng
Với màu da tái sạm
Tứ chi đều run rẩy
Hơi thở mạnh dồn dập
Cất tiếng rên thống thiết
Trông thật đáng thương tâm
Nàng khổ tôi cũng khổ
Chìm trong sự thất vọng
Vì thần tượng sụp đổ
Nét đẹp của nàng đâu
Gương mặt như trăng rằm
Mũi thon cao xinh xắn
Với đôi mắt bồ câu
Bờ môi đẹp màu son
Và cổ tròn khả ái
Của nàng nay đâu rồi
Tất cả không còn nữa
Hôi thối như xác chết
Trước vòng eo thon thả
Và cặp mông căng tròn
Giờ đầy những uế trược
Ôi sắc là vô thường
Toàn bộ thân thể này
Đầy bất tịnh hôi thối
Đáng sợ, đáng nhàm chán
Như xác nơi mộ địa
Chỉ kẻ ngu ưa thích
Khi ấy hoàng huynh ta
Với tấm lòng đại bi
Thấy tâm ta sầu não
Đã phán bài kệ rằng
Nầy Nandā hãy nhìn
Thân này đầy bệnh hoạn
Bất tịnh và hôi thối
Hãy hướng tâm an trú
Trên đề mục bất mỹ
Thân này như thế nào
Thân của ngươi cũng vậy
Thân của ngươi thế nào
Xác thân này cũng vậy
Thân này đầy uế trược
Mùi hôi thối xông lên
Chỉ kẻ ngu ưa thích
Quán thân này như vậy
Đêm ngày không xao lãng
Không lâu sẽ thấu triệt
Bằng trí tuệ của mình
Nghe xong bài kệ ấy
Khiến lòng ta kinh cảm
Nương theo lời Phật dạy
Ta phát triển tuệ quán
Chứng đạt Alahán
Khi ta ngồi nơi đâu
Đều an trú thiền định
Rõ biết đức hạnh ta
Giữa Tăng, Ngài biểu dương
Ta đệ nhất thiền định
Mọi phiền não đốt sạch
Nhổ tận gốc sanh hữu
Chặt đứt dây trói buộc
Đoạn tuyệt các lậu hoặc
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong"

Sau khi đắc quả Alahán, nhìn lại quá trình tu chứng của mình, nàng xướng lên bài kệ rằng:

"Khi ta không phóng dật
Như lý quán thân nầy
Thấy cả nội ngoại phần
Theo thực tánh của nó
Ta phát sanh nhàm chán
Nội tâm được ly tham
Không dễ duôi, không luỵ
Đạt an bình, tịch tịnh"

*

9- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI BHADDĀKUṆḌLAKESĀ
BHADDĀKUṆḌLAKESĀTHERĪGĀTHĀ

Được biết trưởng lão ni Bhaddākuṇḍalakesā đã nói lên bài kệ rằng:

"Khi trước sống một y
Nhổ tóc, không súc miệng
Theo hạnh Nigantha
Không lỗi xem có lỗi
Có lỗi xem là không"
"Rời trú xứ, nghỉ trưa
Trên ngọn núi Linh Thứu
Ta thấy Đức Thế Tôn
Bậc không có bụi phiền
Với Tỳ kheo đoanh vây"
"Quỳ gối, ta đảnh lễ
Đối diện ta chấp tay
Ngài phán với ta rằng
Hãy đến nầy Bhaddā
Lời phán truyền như thế
Là cụ túc của ta"
"Ta đi khắp Aṅgā
Magadha, kāsī
Cùng xứ Kosala
Thọ dụng của tín thí
Năm mươi năm không nợ"
"Với người phật tử nào
Cúng dường y đến ta
Bậc thoát khỏi phiền trược
Thì người phật tử ấy
Gặt hái công đức lớn"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong một gia đình trưởng giả tại thành Rājagaha (Vương Xá) và tên là Bhaddā. Vì là con độc nhất của gia đình giàu có nên nàng rất được cha mẹ thương yêu, cưng chiều và nhiều người hầu hạ.

Khi trưởng thành, một hôm nàng nhìn thấy tên trộm tên Sattuka, con của quan tế tự trong thành bị quân lính áp giải ngang nhà để đem đến pháp trường xử trảm, vì phạm vào trọng tội có đủ nhân chứng, vật chứng. Do duyên tiền kiếp nên nàng cảm thấy thương yêu tên tội phạm vô ngần. Nàng nằm sấp trên giường than khóc rằng:

"Nếu được chàng, ta sẽ sống, bằng không chắc ta sẽ chết".

Người cha vì quá thương con nên đã hối lộ một ngàn đồng vàng cho quan lính và đưa Sattuka đến gặp nàng.

Sống với nhau được ba hôm, nhìn thấy những đồ trang sức quý gái của nàng, Sattuka khởi lòng tham, muốn chiếm đoạt, bèn nói với nàng rằng:

"Nầy em Bhaddā, khi bị lính bắt, anh có phát nguyện với chư thiên ngự tại hòn núi bỏ kẻ trộm (vì vực núi nầy là nơi quăng những tên tội phạm trộm cắp) là khi nào anh được thả, anh sẽ mang lễ vật đến tạ ơn, vậy em hãy giúp anh chuẩn bị những lễ vật, để chúng ta đi tạ ơn".

Vâng lời chàng, Bhaddā sắp đặt đầy đủ các lễ vật, trang điểm xong nàng cùng chồng đi đến ngọn núi ấy.

Khi đến chân núi, Sattuka nghĩ rằng: "Nếu tất cả cùng lên núi thì làm sao ta thực hiện được", Sattuka bèn cho nhóm tuỳ tùng dừng lại tại đấy, rồi cầm lấy túi đựng lễ vật cùng với Bhaddā đi lên núi. Trên đường đi hắn biểu lộ những thái độ không thân ái với nàng khiến nàng cảm thấy nghi ngờ.

Khi đến đỉnh núi, hắn nói rằng:

"Nầy Bhaddā, nàng hãy lộ hết những nữ trang trên người, cởi áo ngoài ra gói những nữ trang ấy lại".

Bhaddā hỏi rằng:

"Thưa phu quân, em có làm điều gì sái quấy chăng?"

Hắn đáp: "nầy nàng ngu, ngươi nghĩ rằng ta đến đây để cúng tế à, nói thật cho nàng biết, ta dụ nàng đến đây để cướp những nữ trang của nàng".

Nàng nói: "Thưa phu quân, những đồ trang sức nầy là của ai và thân em là của ai?".

Hắn đáp: "Ta không biết gì về sự phân chia nầy cả".

Nàng nói: "Thôi được thưa phu quân, nhưng cầu xin chàng cho em một đặc ân, được đeo những nữ trang nầy và hôn chàng lần cuối cùng".

Hắn chấp thuận và khi biết hắn đã nhận lờ, nàng giả bộ ôm hôn hắn rồi liền xô hắn xuống vực, tên trộm ấy rơi xuống vực sâu tan xương nát thịt.

Vị chư thiên ngự tại ngọn núi thấy sự thôn minh, sự bình tĩnh ứng xử của nàng, đã khen ngợi với bài kệ rằng:

"Không phải là lúc nào
Đàn ông cũng thôn gminh
Với phụ nữ nhạy bén
Cũng thành người thông minh
Không phải là lúc nào
Đàn ông cũng thông minh
Phụ nữ ứng xử nhanh
Cũng trở thành người trí"

Rồi Bhaddā suy nghĩ:

"Sự việc xảy ra như vầy, ta không thể trở về nhà được, rời khỏi nơi đây, ta chỉ còn cách xuất gia thôi".

Nàng bèn đi đến trú xứ của nhóm ngoại đạo Nigantha xin xuất gia.

Nhóm Nigantha hỏi nàng:

"Nàng muốn xuất gia ở bậc nào?"

Nàng đáp:

"Bậc thượng trong giáo phái của quý Ngài như thế nào, hãy cho tôi xuất gia như vậy."

Các Nigantha nói: "lành thay", rồi xúm lại nhổ tóc xuất gia cho nàng. Không lâu sau, tóc nàng mọc ra và quăn lại, từ đó nàng mới có tên là Kuṇḍalakesā (nàng tóc quăn).

Sau khi học hỏi giáo lý của tông phái nầy, nàng nhận thấy rằng, nơi giáo phái nầy không có gì huyền nhiệm đặc biệt, nàng bèn từ giã chúng Nigantha và tìm đến các vị danh sư thọ giáo học đạo. Cuối cùng với tài trí hùng biện sắc sảo của nàng khiến không có ai dám tranh luận, nàng đi khắp nơi và khi đến khu làng hay thị trấn nào nàng vun lên một đống cát gần cổng ra vào, cắm một nhánh cây diêm phù và căn dặn những đứa trẻ ở gần đó rằng:

"Người nào muốn tranh luận với ta thì hãy dẫm lên cành cây diêm phù nầy".

Sau bảy ngày không có ai dẫm lên, nàng liền đem cành cây ấy đến nơi khác.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn sau khi Chuyển pháp luân, Ngài tuần tự du hành đến thành Sāvatthī và ngự tại Jetavana (Kỳ Viên Tịnh Xá).

Nàng Kuṇḍalakesā đi khắp nơi từ làng mạc, thị trấn đến kinh đô, lần lượt cũng đến thành Sāvatthī và cắm cành cây diêm phù lên đống cát gần cổng thành, căn dặn những đứa trẻ rồi nàng đi vào thành.

Sáng hôm ấy, tôn giả Sārīputta, vị tướng quân chánh pháp một mình vào thành, nhìn thấy cành cây, tôn giả bèn hỏi các đứa trẻ rằng:

"Vì sao cành cây nầy được cắm ở đây".

Các đứa trẻ giải thích cho biết, nghe xong, tôn giả nói với chúng rằng:

"Nếu là vậy, các ngươi hãy dẫm lên cành cây nầy đi".

Các đứa trẻ vâng lời Ngài cùng nhau dẫm lên cành cây ấy.

Nàng Kuṇḍalakesā sau khi thọ thực xong trở ra thành thấy cành cây bị dẫm, bèn hỏi những đứa trẻ. Khi biết tôn giả Sārīputta cho dẫm, nàng suy nghĩ rằng:

"Cuộc tranh luận nầy, nếu không có nhiều người tham dự thì sẽ không thú vị" Nàng bèn đi đến các con đường thông báo rằng:

"Thưa quý vị, xin quý vị hãy đến chứng kiến cuộc tranh luận giữa tôi với sa môn thích tử".

Sau khi quy tụ được một số đông quần chúng, nàng cùng họ đi tìm tôn giả. Bấy giờ Ngài đang ngồi dưới một cội cây, đến nơi nàng nói lên những lời hỏi thăm xã giao, rồi đứng một bên hỏi rằng:

"Thưa tôn giả, cành cây diêm phù tôi cắm, có phải Ngài đã cho những đứa trẻ dẫm lên chăng?"

Tôn giả đáp:

"Đúng vậy, ta đã cho các đứa trẻ dẫm lên".

Nàng nói rằng:

"Nếu là vậy, thì sẽ có cuộc tranh luận giữa tôi với Ngài".

Tôn giả nói: "Xin mời Bhaddā".

Nàng nói: "Thưa tôn giả, Ngài hỏi trước hay tôi?"

Tôn giả: "Thông thường ta sẽ hỏi trước, nhưng giờ nàng cứ hỏi điều nàng biết".

Thuận theo ý tôn giả, nàng nêu lên những câu hỏi theo kiến thức của mình. Tôn giả đã giải đáp sáng tỏ những câu hỏi ấy.

Khi không còn gì để hỏi, nàng đành im lặng.

Tôn giả nói: "Nàng đã nêu lên nhiều vấn đề hỏi ta, bây giờ đến lượt ta chỉ hỏi nàng một điều thôi".

Nàng: "Xin tôn giả cứ hỏi đi".

Tôn giả hỏi rằng: "Ekaṃ nāma kiṃ - Thế nào là một pháp".

Nàng Kuṇḍalakesā tìm không thấy nút thắt đầu, không thấy nút thắt cuối ví như người lạc giữa màn đêm u tịch, bèn thú nhận rằng:

"Tôi không biết thưa Ngài".

Tôn giả nói: "Chỉ với một pháp, ngươi còn chưa biết, thì những pháp khác sao ngươi có thể biết được".

Rồi tôn giả thuyết pháp cho nàng, dứt pháp thoại, nàng khấu đầu dưới chân tôn giả thưa rằng:

Bạch tôn gỉa, con xin quy y nơi Ngài".

Tôn giả khuyên: "Nầy Bhaddā, chớ có quy y ta, ngươi hãy đến quy y nơi Thế tôn, bậc Đạo Sư của trời người".

Nàng nói: "Con sẽ làm theo lời Ngài dạy - Bạch Ngài".

Chiều lại nàng đi đến yết kiến bậc Đạo Sư, đảnh lễ ngũ thổ đầu địa, rồi đứng một bên, bậc Đạo Sư thấy căn cơ nàng đã thuần thục bèn phán rằng:

"Dầu có ngàn câu kệ
Nhưng không chút lợi ích
Tốt hơn nói một câu
Nghe xong được tịnh lạc"
.

Vừa dứt bài kệ, cũng trong tư thế đứng ấy nàng chứng quả Alahán với tứ tuệ phân tích.

Nàng đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna:

"Cách nay trăm ngàn kiếp
Có Đức Phật hồng danh
Padumuttara
Sanh lên trong thế gian
Bấy giờ, ta tái sanh
Trong gia đình trưởng giả
Giàu có nhiều báu vật
Tại Haṃsavati
Một hôm ta đi đến
Yết kiến bậc Đại Hùng
Nghe Ngài giảng chánh pháp
Lòng tịnh tín phát sanh
Ta đến quy y Ngài
Trở thành cận sự nữ
Rồi ta thấy Thế Tôn
Bậc đầy lòng từ bi
Biểu dương trưởng lão ni
Với tên gọi Subhā
Đệ nhất hàng ni giới
Về sự giải thoát mau
Nghe những lời Phật phán
Ta lấy làm thoả thích
Với vị trí như thế
Rồi ta cung thỉnh Ngài
Cùng đại chúng tỷ kheo
Về cúng dường trai phạn
Khi Ngài thọ thực xong
Quỳ dưới chân Đạo sư
Ta nguyện vị trí ấy
Lúc ấy Bậc Đại Hùng
Nói lời tuỳ hỷ rằng
Này tín nữ Bhaddā
Con nguyện vị trí nào
Sẽ đạt vị trí ấy
Chúc con được an lạc
Do thiện nghiệp khéo làm
Sau khi ta mệnh chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Mãn thọ từ cõi ấy
Ta sanh cõi Dạ Ma
Rồi sanh cõi Đâu Xuất
Ta sanh cõi Hoá Lạc
Cuối cùng Tha Hoá Thiên
Dù sanh ở cõi nào
Chính do phước nghiệp ấy
Ta được làm hoàng hậu
Của Thiên vương các cõi
Khi sanh xuống cõi người
Ta được làm hoàng hậu
Của Đức Chuyển Luân Vương
Và được làm hoàng hậu
Của các đại vương quốc
Ta luôn được an lạc
Trong hai cõi nhân thiên
Vào thời kỳ giáo pháp
Thế Tôn Kassapa
Bậc có đại uy danh
Bậc tối thượng Đạo Sư
Có đức vua Kiki
Trì vì xứ Kāsī
Ngài là cận sự nam
Là vị đại đàn tín
Của Phật Kassapa
Bấy giờ ta tái sanh
Làm công chúa thứ tư
Của vua Kāsī ấy
Tên Bhikkhudāsī
Sau khi nghe pháp Phật
Ta thích đời xuất gia
Nhưng phụ vương không cho
Dù không được xuất gia
Nhưng bảy chị em ta
Không sao lãng lý tưởng
Thọ trì đủ mười giới
Sống phạm hạnh trọn vẹn
Đến hai chục ngàn năm
Bảy chị em ta là
Công chúa Samaṇī
Samaṇaguttā
Thứ ba Bhikkhunī
Bhikkhudāsikā
Thứ năm nàng Dhammā
Thứ sáu Sudhammā
Và Saṅghadāsikā
Chuyển sanh hiện nay là
Trưởng lão ni Khemā
Uppalavaṇṇā
Nàng Patācārā
Kisagotamī
Nàng Dhammadinnā
Và tín nữ Visākhā
Do thiện nghiệp khéo làm
Từ kiếp ấy mệnh chung
Được sanh cõi Đạo Lợi
Nay là kiếp cuối cùng
Ta sanh tại Vương Xá
Trong gia đình trưởng giả
Giàu có, tài sản lớn
Khi ta vừa trưởng thành
Nhìn thấy tên tử tội
Bị giải đi hành quyết
Ta sanh lòng luyến ái
Với tên tội phạm ấy
Cha ta vì thương con
Lấy một ngàn tiền vàng
Hối lộ quan hữu trách
Để cứu thoát phạm nhân
Sau đó, dẫn hắn đến
Ông giao tận tay ta
Do duyên từ kiếp trước
Khiến ta đam mê hắn
Yêu thương hắn vô ngần
Tên trộm vì tham muốn
Nữ trang quý của ta
Hắn bịa chuyện tế lễ
Nơi ngọn núi bỏ trộm
Với mục đích giết ta
Đoạt những trang sức ấy
Bấy giờ vì giữ mạng
Ta cúi đầu lễ bái
Chấp tay nói như vầy
Những vàng ngọc quý này
Xin chàng cứ lấy đi
Và tha cho Bhaddā
Bhaddā hứa trở thành
Nô tỳ tốt của chàng
Tên trộm Sattuka nói với ta rằng:
"Bhaddā ngươi phải chết
Ngươi chớ có van xin
Ta không tha ngươi đâu".
Ta nói với Sattuka:
"Từ khi thiếp hiểu biết
Cho đến ngày hôm nay
Thiếp chưa từng yêu ai
Thắm thiết như yêu chàng
Trước giờ phút biệt ly
Không còn gặp nhau nữa
Xin chàng hãy cho thiếp
Ôm hôn, nhiễu quanh chàng
Lần cuối cùng của thiếp".
Rồi ta xô tên trộm
Rơi xuống vực núi sâu
Ta giết Sattuka
Ví như lông con thú
Sát hại chính nó vậy
Người nào biết xử lý
Kịp thời những sự việc
Đang xảy ra trước mắt
Người ấy sẽ thoát khỏi
Bức hiếp của kẻ thù
Giống như ta thoát khỏi
Tên trộm Sattuka
Sau khi trừ mối hoạ
Ta tìm đến xuất gia
Nơi phái Nigantha
Không thấy sự huyền diệu
Từ trong giáo điển nầy
Rời bỏ chúng ta đi
Tìm học các danh sư
Cuối cùng không ai dám
Đến tranh luận cùng ta
Rồi phước duyên đưa đẩy
Ta đến thành Sá Vệ (Sāvatthī)
Được diện kiến Trưởng lão
Bậc tướng quân chánh pháp
Ngài đã nhiếp phục ta
Khuyên ta đến Thế Tôn
Vâng theo lời dạy ấy
Ta đến lễ Đạo Sư
Ngài thuyết giảng Chánh pháp
Nghe xong, ta tỏ ngộ
Trở thành bậc Vô lậu
Phận sự với Đạo Sư
Ta đã làm xong rồi
Lời dạy của Đạo Sư
Ta cũng thực hành xong
Gánh nặng đã đặt xuống
Ái hữu đã nhổ sạch
Vì đích gì xuất gia
Bỏ nhà sống không nhà
Mục đích ấy ta đạt
Pháp đoạn trừ triền phược
Đã được ta tác chứng
Trí tuệ ta thông suốt
Trong tứ vô ngại giải
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong.

Sau khi chứng quả Alahán, nàng đã xin xuất gia, bậc Đạo Sư truyền đạt giới cho nàng, nàng đi đến tịnh xá của các tỳ kheo ni, sống với sự an lạc giải thoát, nhìn lại quá trình tu chứng của mình, nàng đã nói lên bài kệ rằng:

"Khi trước sống một y
Nhổ tóc, không súc miệng
Theo hạnh Nigantha
Không lỗi xem có lỗi
Có lỗi xem là không"
"Rời trú xứ, nghỉ trưa
Trên ngọn núi Linh Thứu
Ta thấy Đức Thế Tôn
Bậc không có bụi phiền
Với Tỳ kheo đoanh vây"
"Quỳ gối, ta đảnh lễ
Đối diện ta chấp tay
Ngài phán với ta rằng
Hãy đến nầy Bhaddā
Lời phán truyền như thế
Là cụ túc của ta"
"Ta đi khắp Aṅgā
Magadha, kāsī
Cùng xứ Kosala
Thọ dụng của tín thí
Năm mươi năm không nợ"
"Với người phật tử nào
Cúng dường y đến ta
Bậc thoát khỏi phiền trược
Thì người phật tử ấy
Gặt hái công đức lớn"

*

-ooOoo-

 Ðầu trang | 01 | 02 | Tập 1


Chân thành cám ơn Tỳ khưu Chánh Minh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 10-2005).


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 14-10-2005