BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Lời Vàng Bậc Thánh
Sớ giải Trưởng Lão Tăng Kệ -
Tập 1

Bhikkhu Kusalapuñño
(Tỳ khưu Thiện Phúc)


  

[02]

11- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SĀNU
SĀNUTHERAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Sānu nói lên bài kệ như vầy:

"Thưa mẫu thân! người ta khóc vì người đã chết hay khóc vì người sống biệt ly, còn con vẫn đang sống và đang hiện diện, vì sao mẫu thân lại khóc cho con?"

Trong quá khứ trưởng lão Sānu tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát, khởi đầu là kiếp thứ 94 kể từ hiền kiếp này trở về trước, trưởng lão mang nước đến cúng dường Đức Thế Tôn hồng danh Siddhattha để Ngài rửa tay, rửa chân trước khi Ngài thọ thực và đứng một bên hầu Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn thọ thực xong, trưởng lão dâng nước để Ngài xúc miệng, do thiện sự đó khi mệnh chung trưởng lão được tái sanh lên thiên giới.

Ở kiếp thứ sáu mươi mốt, trưởng lão được sanh làm vua Chuyển Luân tên là Vimala thành tựu đầy đủ bảy báu.

Sau khi luân chuyển giữa hai cõi trời - người, vào kiếp cuối cùng trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, trưởng lão tái sanh vào một gia đình thiện nam tại thành Sāvatthī, trong thời gian mang thai trưởng lão, người cha đã bỏ đi xứ khác, vừa tròn 10 tháng người mẹ đã hạ sanh một cậu bé kháu khỉnh và đặt tên là Sānu. Khi Sānu tròn bảy tuổi, người mẹ suy nghĩ rằng:

"Ta sẽ cho Sānu xuất gia, vì với đời sống xuất gia, Sānu sẽ không gặp hiểm hoạ và sẽ lớn lên trong sự an lạc". Bà dẫn Sānu đến chỗ chư tỳ khưu xin cho cậu bé được xuất gia. Từ đó cậu có thêm tên mới là Sānusāmaṇera – sadi Sānu. Sadi Sānu là người có trí tuệ, là bậc đa văn, là vị pháp sư giỏi, là người sống với tâm từ đối với mọi loài, là chỗ thương mến, vừa lòng của chư thiên và nhân chúng. Người mẹ trong quá khứ của sadi Sānu hiện là một nữ dạ xoa cõi Tứ đại vương (Mahārāja), từ khi Sānu xuất gia là chỗ thương miến kính trọng của nhân-thiên như thế nên nữ dạ xoa này cũng được các chư thiên dạ xoa cung kính, tôn trọng, ngưỡng mộ vì nghĩ rằng: "nữ dạ xoa này là mẹ của sadi Sānu". Thời gian sau, sadi Sānu giải đãi, lui sụt, thối thất, có ý muốn hoàn tục. Nữ dạ xoa biết được chuyện ấy, thông báo cho người mẹ hiện tại biết rằng: "Này bạn, sadi Sānu con của bạn khởi ý muốn hoàn tục, vậy bạn hãy khuyên bảo, sách tấn sadi Sānu và đọc lại lời nói của các dạ xoa rằng: "chớ hành ác, dù ở nơi trống trải hay nơi khuất lấp, nếu người sẽ hoặc đang làm điều ác, người có muốn chạy trốn cũng không thoát khỏi khổ đau". Sau khi nói như thế, dạ xoa biến mất tại chỗ ấy, còn người mẹ khi nghe được những lời này, bà cảm thấy sầu muộn đau khổ vô cùng. Vào buổi sáng hôm sau, sadi Sānu đắp y mang bát về nhà, thấy mẹ đang khóc, bèn hỏi rằng: "thưa mẫu thân, vì sao mẫu thân khóc?" – Vì con đó, con thân. Sadi Sānu bèn nói lên bài kệ với mẹ rằng: "Thưa mẫu thân! người ta khóc vì người đã chết hay khóc vì người sống biệt ly, còn con vẫn đang sống và đang hiện diện ở đây, tại sao mẫu thân lại khóc cho con?"

Mẹ của sadi Sānu, sau khi nghe những lời ấy rồi, bà nói rằng: Này con thân! sự hoàn tục được xem là chết trong giới luật của bậc thánh, như câu kinh rằng: "Này chư tỳ khưu, vị tỳ khưu nào từ bỏ học giới, trở về thế tục, đó là sự chết của kẻ ấy".

Rồi bà nói lên bài kệ rằng:

- "Này con thân! quyến thuộc và bạn bè thường khóc cho những người chết hoặc khóc cho người sống biệt ly, nhưng những ai đã từ bỏ dục vọng lại trở về với dục vọng. Này con thân! quyến thuộc và bạn bè sẽ khóc cho người ấy, vị họ tuy còn sống cũng giống như đã chết. Này con thân! Ta đưa con lên khỏi hầm than rực lửa, con lại muốn rơi vào hầm lửa ấy nữa sao?"

Sadi Sānu sau khi nghe bài kệ ấy, lấy làm xấu hổ, dao động tâm, trở lại tinh tấn và phát triển thiền quán, ít lâu sau Ngài chứng quả Alahán. Sau khi chứng quả sadi nghĩ rằng: "sở dĩ ta phát triển thiền quán và đắc quả Alahán là do tác động của những bài kệ này", nên đã lấy những bài kệ này thành những bài kệ Udāna và trong Apadāna trưởng lão đã nói lên bài kệ Udāna rằng:

"Ta thấy Đại Samôn
Thật trong sáng thanh tịnh
Đang từ tốn thọ thực
Ta lấy nước trong bình
Đến dâng Đức Thế Tôn
Hồng danh Siddhattha
Hôm nay ta thành người,
Vô ưu, ly bụi trần
Chấm dứt mọi nghi hoặc
Đây chính là kết quả
Từ việc cúng dường nước
Kể từ hiền kiếp này
Trở lui kiếp 94
Ta đã cúng dường nước
Chính do thiện nghiệp ấy
Ta không biết khổ cảnh
Trong kiếp thứ 61
Ta làm Chuyển Luân Vương
Danh xưng Vimala
Đầy đủ với bảy báu
Đến kiếp cuối cùng này
Ta thiêu đốt phiền não
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chặt đứt dây trói buộc
Đoạn trừ các lậu hoặc
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

*

12- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MAHĀKOṬṬHITA
MAHĀKOṬṬHITAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Mahākoṭṭhita đã nói lên bài kệ như vầy:

"An tịnh ly ác hạnh
Lời nói với trí tuệ
Tâm tư không phóng động
Ác pháp được đoạn trừ
Giống như những lá cây
Bị gió thổi rơi rụng".

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hồng danh Padumuttara, trưởng lão sanh vào một gia đình bàlamôn trưởng giả tại thành Haṃsavatī. Khi cha mẹ qua đời, vị bàlamôn này kế thừa và cai quản sản nghiệp của cha mẹ để lại. Một hôm, ngài nhìn thấy dân chúng thành Haṃsavatī, tay cầm lễ vật hướng về tịnh xá, nơi Đức Thế Tôn Padumuttara ngự để nghe pháp, ngài cũng tháp tùng đi theo đại chúng, và được thấy Đức Thế Tôn tuyên dương vị tỳ khưu thù thắng hơn chư tỳ khưu về sự đắc chứng Tứ vô ngại giải, ngài suy nghĩ rằng: "Ta được nghe vị trưởng lão ấy thù thắng hơn chư tỳ khưu về Tứ vô ngại giải trong giáo pháp này, vậy ta cũng nên trở thành người thù thắng giống như trưởng lão ấy, trong giáo pháp của vị Phật tươn glai". Khi Đức Thế Tôn thuyết pháp xong, ngài đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài cùng chư tỳ khưu tăng hãy nhận lời thọ thực tại nhà con vào sáng ngày mai.

Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Vị bàlamôn sau khi biết Đức Thế Tôn nhận lời liền đảnh lễ và nhiễu quanh Ngài rồi trở về nhà mình. Ông lo trang hoàng sắp đặt chỗ ngồi và chuẩn bị các món ăn thượng vị.

Khi đêm đã mãn, Đức Thế Tôn cùng với 100.000 tỳ khưu tăng ngự đến nhà của bàlamôn, vị bàlamôn tiếp rước và phục vụ Đức Phật cùng chư tỳ khưu tăng đầy đủ với các món ăn thượng vị. Sau khi Đức Phật và chư tăng thọ thực xong, vị bàlamôn suy nghĩ rằng: "Ta mong được một vị trí cao quý như thế mà chỉ cúng dường có một ngày như vậy xem ra không tương xứng, vậy ta nên cúng dường suốt bảy ngày".

Thế là vị bàlamôn cúng dường thực phẩm suốt bảy ngày liên tiếp. Ngài cho mở kho chọn lựa vải thật tốt để may y. Ngày thứ bảy sau khi cúng dường thực phẩm xong, Ngài cúng dường tam y đến Đức Phật cùng 100.000 tỳ khưu, xong rồi quỳ dưới chân Đức Thế Tôn ước nguyện rằng:

- Do phước báu mà con đã cúng dường thực phẩm suốt bảy ngày và dâng tam y đến Thế Tôn cùng tăng chúng, con chỉ ước nguyện được trở thành vị thù thắng hơn chư tỳ khưu về Tứ vô ngại giải trong giáo pháp của Đức Chánh Giác vị lai.

Đức thế Tôn đưa Phật trí quán xét thấy nguyện vọng này sẽ thành tựu nên Ngài thọ ký rằng: "Trong tương lai, sao 100.000 đại kiếp kể từ kiếp này, có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Gotama xuất hiện trên thế gian, bàlamôn này sẽ là người thừa tự giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy, sẽ là vị đại thinh văn với danh xưng là Koṭṭhita".

Nghe lời tiên tri của Đức Thế Tôn, tâm Ngài hân hoan vô cùng, từ đó về sau Ngài sống với hạnh của một cận sự nam, hộ độ Đức Phật cùng chư tăng. Do thiện sự đó khi mạng chung Ngài được sanh lên cõi trời Đạo Lợi, làm thiên vương Đế thích trong thiên giới ấy 300 lần, làm Chuyển Luân Vương 500 lần và nhiều lần làm vua cai trị quốc độ lớn. Cũng do thiện sự đó, trong mỗi kiếp sanh ra, Ngài luôn luôn được sự an lạc, chỉ luân chuyển trong hai cõi trời-người, khi ở cõi nhân loại vị này chỉ sanh torng hai dòng tộc là dòng vua chúa và dòng balamôn, không sanh trong dòng dõi thấp.

Một đoạn kệ trong Apādāna trưởng lão đã nói lên như sau:

"Đến kiếp cuối cùng, ta tái sanh vào gia đình bàlamôn đại trưởng giả tại thành Sāvatthī, mẹ của ta là Candavatī, cha của ta là Assadāyana. Khi trưởng thành, ta học nằm lòng tam phệ đà và thành tựu các nghệ thuật của bàlamôn.

Một hôm, trong lúc Đức Thế tôn chỉ dẫn cho cha ta pháp thanh tịnh, ta đã khởi tâm tịnh tín nơi Đức Thế tôn và xin được xuấg gia. Trưởng lão Moggallāna (Mục Kiền Liên) là giáo thọ sư, trưởng lão Sārīputta (Xá Lợi Phất) là tế độ sư của ta. Ta chặt đứt tận gốc tà kiến trong khi đang cạo tóc và khi đang mặc y ta chứng quả Alahán. Ta là người nhạy bén thuần thục trong nghĩa, pháp, ngữ và biện, thế nên Đức Thế Tôn tuyên dương ta thù thắng hơn chư tỳ khưu về Tứ vô ngại giải trong igáo pháp này. Có lần thầy tế độ của ta là trưởng lão Sārīputta đã nêu lên những câu hỏi trong vô ngại giải, ta giải đáp không khó khăn, không chướng ngại. Ta đoạn trừ tất cả phiền não, nhổ lên tận gốc sanh hữu, chấm dứt các lậu hoặc, tam minh ta chứng đạt, lời Phật dạy làm xong"

Về sau, khi hưởng an lạc giải thoát, Ngài đã nói lên bài kệ rằng:

"An tịnh ly ác hạnh
Lời nói với trí tuệ
Tâm tư không phóng động
Ác pháp được đoạn trừ
Giống như những lá cây
Bị gió thổi rơi rụng".

*

13- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO GODHIKA
GODHIKATHERAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Godhika đã nói lên bài kệ như vầy:

"Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kín đáo,
Tâm ta khéo định tĩnh
Nếu người muốn hãy mưa
Trời mưa hãy mưa đi".

Đây là những bài kệ của bốn vị trưởng lão, đó là trưởng lão Godhika, trưởng lão Subāhu, trưởng lão Valliya và trưởng lão Uttiya, bốn vị đã tuần tự nói lên bài kệ của mình và có nhân duyên tiền kiếp như sau:

Bốn vị trưởng lão này, cùng nhau tạo phước, trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hồng danh Siddhattha. Từ hiền kiếp này trở về trước đến kiếp thứ 94, cả bốn người đều là bạn thân với nhau.

Một hôm, người thứ nhất đi trên đường nhìn thấy Đức Thế tôn Siddhattha đang khất thực, đã phát tâm trong sạch cúng dường thực phẩm đến Ngài.

Người thứ nhì có tâm tịnh tín, quỳ xuống đảnh lễ theo ngũ thể đầu địa.

Người thứ ba hoan hỷ cúng dường một nắm hoa sen.

Người thứ tư đã hoan hỷ cúng dường hoa lài. Do thiện sự đó, khi mạng chung, cả bốn người bạn này được sanh về thiên giới và an hưởng đầy đủ những thiên lạc thù diệu trên cõi trời.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế tôn Kassapa, bốn người này sanh xuống cõi người và cũng làm bạn với nhau, do duyên lành quá khứ cho nên một hôm họ cùng nhau đến chùa nghe pháp từ Đức Thế Tôn Kassapa rồi phát khởi niềm tin trong sạch, xin xuất gia, thực hành phạm hạnh trong giáo pháp của Ngài.

Đến kiếp cuối cùng, là thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, bốn người bạn này được sanh vào hoàng tộc Malla trong thành Pāvā. Đức vua Malla đã đặt tên cho bốn vị hoàng tộc này là Godhika, Subāhu, Valliya và Uttiya. Bốn vị vương tử là bạn thân với nhau. Một hôm, bốn vị cùng nhau đến thành Kapilavatthu vì một vài công việc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn du hành đến thành Kapilavatthu và ngự tại Nirodhāvāma (Chùa Cây Bàng). Đức Thế Tôn dùng th6ng lực cảm hoá tiếp độ hoàng tộc Thích ca có cả Đức vua Suddhodana (Tịnh Phạn) là bậc trưởng bối. Lúc ấy bốn vị vương tử xứ Malla chứng kiến thông lực của Đức Thế Tôn đã phát tâm tịnh tín xin xuất gia, sau khi xuất gia xong, cả bốn vị đều tinh cần phát triển thiền qúan, không bao lâu bốn vị đã chứng quả Alahán với tuệ vô ngại giải. Như trong Apadāna, trưởng lão Godhika đã nói lên bài kệ như vầy:

"Ta nhìn thấy Đức Phật
Màu da như vàng ròng
Bậc xứng đáng cúng dường
Bước ra từ rừng vắng
Bên cúng dường thực phẩm
Đến Đức Siddhattha
Bậc có đại trí tuệ
Đã đạt được tịch tịnh
Bậc đại hùng đại lực
Ta đi theo chân Ngài
Bậc soi sáng thế gian
Ta vô cùng hoan hỷ
Nơi Đức Chánh Đẳng Giác
Kể từ hiền kiếp này
Trở lui kiếp chín tư (94)
Vật thí nào ta tạo
Chính do thiện nghiệp ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đây chính là kết quả
Của việc dâng thực phẩm
Đến kiếp tám mươi bảy
Lui từ hiền kiếp này
Bảy lần ta tái sanh
Làm Chuyển Luân Thánh Vương
Tên Mahārenu
Đầy đủ với bảy báu
Đến kiếp cuối cùng này
Ta thiêu đốt phiền não
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chặt đứt dây trói buộc
Đoạn trừ các lậu hoặc
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Trưởng lão Subāhu nói lên bài kệ như vầy:

"Ta nhìn thấy Đức Phật
Màu da như vàng ròng
Bậc oai hùng tam giới
Như ngựa Ajāney
Như voi Mātaṇga
Bậc tìm cầu tối thượng
Soi sáng khắp thế gian
Như cây chúa trổ hoa
Bậc cao quý tam giới
Tối thượng hơn Nara
Đang ngự đi trên đường
Khiến tâm ta tịnh tín
Chắp tay tâm trong sạch
Lòng tràn đầy hoan hỷ
Đảnh lễ Đức Thế Tôn
Hồng danh Siddhattha
Kể từ hiền kiếp này
Trở lui kiếp 94
Thiện nghiệp nào ta tạo
Chính do thiện nghiệp ấy
Ta không biết khổ cảnh
Trong kiếp bảy mươi ba
Kể từ hiền kiếp này
Mười sáu lần ta sanh
Làm Chuyển Luân Thánh Vương
Tên Naruttama
Đầy đủ với bảy báu
Đến kiếp cuối cùng này
Ta thiêu đốt phiền não
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chặt đứt dây trói buộc
Đoạn trừ các lậu hoặc
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Trưởng lão Valliyā nói lên bài kệ như vầy:

"Cũng chính vào thời ấy
Ta làm thợ kết hoa
Trong thành Tiravā
Ta nhìn thấy Đức Phật
Bậc thoát ly bụi trần
Hồng danh Siddhattha
Tâm ta đầy hoan hỷ
Dâng một nắm hoa sen
Ta sanh ra trong cõi nào
Do quả thiện sự ấy
Ta sống trong an lạc
Được tuỳ tùng vây quanh
Kể từ hiền kiếp này
Trở lui kiếp 94
Ta đã cúng dường hoa
Đến Đức Chánh Đẳng Giác
Chính do thiện nghiệp này
Ta không biết khổ cảnh
Năm trăm lần ta sanh
Làm vua của quốc độ
Tên Najjasama
Cho đến kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chặt đứt dây trói buộc
Đoạn trừ các lậu hoặc
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong"
.

Trưởng lão Uttiya nói lên bài kệ như vầy:

"Ta đã dâng hoa lài
Đến Đức Chánh Đẳng Giác
Hồng danh Siddhattha
Ta đã rải hoa lài
Xuống chân Đức Thế Tôn
Với tâm đầy hoan hỷ
Chính do thiện nghiệp đó
Nay ta được chứng đạt
Pháp bất tử tối thượng
Đây là thân cuối cùng
Trong giáo pháp của Phật
Kể từ hiền kiếp này
Mười ba lần ta sanh
Làm Chuyển Luân Thánh Vương
Với danh xưng được gọi
Samantagandha
Cai trị cả địa cầu
Cho đến tận bốn biển
Và trong kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não
Nhổ lên gốc sanh hữu
Chặt đứt dây trói buộc
Đoạn trừ các lậu hoặc
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Bốn vị trưởng lão sau khi chứng quả Alahán được nổi tiếng khắp nơi rằng "Bốn đại trưởng lão ấy là người được Đức vua và các đại thần tôn trọng, kính nể, hiện đang ngự trong rừng".

Một hôm, Đức vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) ngự đến nơi bốn vị trưởng lão, sau khi đảnh lễ rồi cung thỉnh bốn vị ở lại an cư vào mùa mưa tại kinh thành Rājagaha, Đức vua truyền lệnh cất bốn am thất dâng cho bốn vị trưởng lão, nhưng lại quên lợp mái. Các vị trưởng lão ở trong am thất chưa được lợp, mặc dầu đã đến mùa mưa nhưng bầu trời vẫn không đổ hạt, Đức vua mới suy nghĩ rằng: "Do nhân gì khiến trời không mưa?". Khi biết được nguyên nhân, Đức vua truyền cho lệnh lợp mái các am thất ấy cho tô vách bằng chất dẻo và trang hoàng xinh đẹp, xong rồi Đức vua tổ chức lễ cúng dường am thất đến chư tỳ khưu tăng.

Để tiếp độ Đức vua, các vị trưởng lão đi vào am thất nhập thiền đề mục từ (Mettā). Liền sau đó những đám mây đen nổi lên ở hướng bắc và hướng đông, báo hiệu sẽ mưa khi các vị trưởng lão xả thiền. Trong các vị trưởng lão ấy, trưởng lão Godhika xả thiền cùng lúc với cơn mưa cất tiếng hát vang giữa không trung, cảm hứng với cảnh tượng này.

Trưởng lão nói lên bài kệ rằng:

"Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kín đáo,
Tâm ta khéo định tĩnh
Nếu người muốn hãy mưa
Trời mưa hãy mưa đi".

Trưởng lão Subāhu nói lên bài kệ kế tiếp:

"Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kín đáo
Tâm ta khéo định trên thân
Nếu ngươi muốn hãy mưa
Trời mưa hãy mưa đi"

Tiếp theo là trưởng lão Valliya nói lên kệ ngôn:

"Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kínhđáo
Không dễ duôi ta sống
Nếu người muốn hãy mưa
Trời mưa hãy mưa đi".

Trưởng lão Uttiya nói lên kệ rằng:

"Mưa rơi tiếng êm ả
Giống như điệu nhạc ru
Am thất ta khéo lợp
Có cửa đóng kính đáo
Ta độc cư trong cốc
Nếu người muốn hãy mưa
Trời mưa hãy mưa đi".

*

14- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MĀNAVA
MĀNAVATHERAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Mānava nói lên bài kệ rằng:

"Tôi thấy một người già
Một người bệnh trầm kha
Tôi thấy một người chết
Với tuổi thọ đã tận
Nên từ bỏ dục lạc
Khiến tâm người mê thích
Tôi sống đời xuất gia".

Trưởng lão Mānava đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát với chư Phật quá khứ. Kể từ hiền kiếp này trở về trước, vào kiếp 91, trưởng lão tái sanh trong một gia đình bàlamôn. Khi trưởng thành, Ngài học nằm lòng tam phệ đà và trở thành người xem tướng pháp nổi tiếng.

Khi bồ tát Vipassī đản sanh, Ngài được mời đến xem tướng, quan sát tướng bồ tát, Ngài tiên đoán rằng "Người này về sau sẽ xuất gia và chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác". Ngài tán thán ca tụng bồ tát sau đó xá chào nhiễu quanh bồ tát rồi ra về.

Do thiện nghiệp đó, khi mạng chung vị bàlamôn được tái sanh lên thiên giới và trong suốt thời gian luân hồi sanh tử, chỉ tái sanh trong nhàn cảnh.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, Ngài tái sanh vào một gia đình bàlamôn danh tiếng tại thành Sāvatthī, và được đặt tên là Mānava, từ khi sanh ra Mānava ở suốt trong nhà bảy năm. Một hôm, những người hầu đưa Mānava đi ngoạn cảnh. Trên đường Mānava đã nhìn thấy:

- Người già
- Người bệnh
- Người chết

Vì chưa từng thấy những cảnh tượng đó, nên Mānava hỏi những người hầu, được họ giải thích cặn kẽ về nguyên nhân cùng tướng trạng của sự già, sự bệnh và sự chết, nghe xong tâm Mānava phát sanh kinh cảm liền quay về. Do duyên lành giải thoát đã chín muồi, nên Mānava tìm đến tịnh xá, nghe pháp nơi Đức Thế Tôn, niềm tịnh tín nơi Thế Tôn được tái lập lại sau một thời gian dài bị vô minh và ái dục che lấp. Mānava trở về nhà xin phép cha mẹ xuất gia. Sau khi xuất gia, tôn giả Mānava nhiệt tâm tinh cần phát triển thiền quán, không bao lâu chứng đạt quả vị Alahán.

Như bài kệ của trưởng lão nói lên trong Apadāna rằng:

"Bồ tát Vipassī
Hạ sanh không bao lâu
Ta đi đến xem tướng
Nhìn tướng ta tiên tri
Vị này trong tươn glai
Sẽ từ bỏ thế tục
Sống đời sống xuất gia
Thành bậc Chánh Đẳng Giác
Giúp quần sanh thoát khổ
Khi Thế Tôn hạ sanh
Cả mười ngàn thế giới
Rung chuyển và chấn động
Bây giờ Đức Thế Tôn
Bậc đầy đủ tuệ nhãn
Đang ngự toạ thuyết pháp
Khi Thế Tôn hạ sanh
Có hào quang vô lượng
Bây giờ Đức Thế Tôn
Bậc đầy đủ tuệ nhãn
Đang ngự toạ thuyết Pháp
Khi Thế Tôn hạ sanh
Các dòng sông ngừng chảy
Bây giờ Đức Thế Tôn
Bậc đầy đủ tuệ nhãn
Đang ngự toạ thuyết Pháp
Khi Thế Tôn hạ sanh
Lửa địa ngục A tỳ
Dừng lại, không thiêu đốt
Bây giờ, Đức Thế Tôn
Bậc đầy đủ tuệ nhãn
Đang ngự toạ thuyết Pháp
Khi Thế Tôn hạ sanh
Loài phi cầm không bay

Bây giờ, Đức Thế Tôn
Bậc đầy đủ tuệ nhãn
Đang ngự toạ thuyết Pháp
Khi Thế Tôn hạ sanh
Các cơn gió ngừng thổi
Bây giờ, Đức Thế Tôn
Bậc đầy đủ tuệ nhãn
Đang ngự toạ thuyết Pháp
Khi Thế Tôn hạ sanh
Các loài ngọc chiếu sáng
Bây giờ, Đức Thế Tôn
Bậc đầy đủ tuệ nhãn
Đang ngự toạ thuyết Pháp
Khi Thế Tôn hạ sanh
Chân bước đi bảy bước
Bây giờ, Đức Thế Tôn
Bậc đầy đủ tuệ nhãn
Đang ngự toạ thuyết Pháp
Khi Thế Tôn hạ sanh
Ngài nhìn thấy các hướng
Cất lên tiếng Ngưu Vương
Ta khiến cho mọi người
Phát sanh sự kinh cảm
Tán thánh Đức Thế Tôn
Bậc Đạo sư thế gian
Sau khi đảnh lễ Ngài
Ta đi theo hướng đông
Kể từ hiền kiếp này
Trở lui kiếp 91
Ta tán thán Phật nào
Do sự tán thán ấy
Ta không biết khổ cảnh
Trong kiếp thứ 90
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Sammukhāthavika
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 89
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Danh xưng Pathavī
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 88
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Danh xưng là Obhāsa
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 87
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Saritacchedana
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 86
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Agginibbāpana
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 85
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Katipacchādana
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 84
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Vātasama
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 83
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Ratanapajjala
Trong kiếp thứ 82
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Padavikkamana
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 81
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Vilokana
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp thứ 80
Kể từ hiền kiếp này
Ta làm Chuyển Luân Vương
Tên Girasāra
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp cuối cùng này
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".
Sau khi chứng quả Alahán, một lần nọ, chư tỳ khưu hỏi tôn giả Mānava rằng: "Này hiền giả Mānava, hiền giả còn trẻ, vậy chớ hiền giả buồn chuyện gì mà đi tu?" Để xác chứng quả Alahán và bày tỏ động cơ cho việc xuất gia của mình, tôn giả đã nói lên bài kệ rằng:

"Tôi thấy một người già
Một người bệnh trầm kha
Tôi thấy một người chết
Với tuổi thọ đã tận
Nên từ bỏ dục lạc
Khiến tâm người mê thích
Tôi sống đời xuất gia".

*

15- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO EKUDĀNIYA
EKUDĀNIYATHERAGĀTHĀ

Được nghe rằng trưởng lão nói lên bài kệ như sau:

"Tất cả sự sầu muộn
Không có cho tỳ khưu
Bậc có tăng thượng tâm
Trú pháp không dễ duôi
Bậc ẩn sĩ học tập
Trên con đường chánh trí
Thể nhập sự an tịnh
Chánh niệm trong mọi thời".

Vị trưởng lão này đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát trong thời chư Phật quá khứ, và trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Atthadassī, trưởng lão tái sanh làm tướng quân trong hàng dạ xoa (Yakkha). Khi Đức Thế Tôn níp bàn, tướng quân dạ xoa sầu muộn bi ai rằng:

- Thật bất lợi cho ta, bây giờ ta không còn cơ hội để cúng dường và thính pháp nơi Đức Thế Tôn, bởi lúc Ngài chưa viên tịch ta không có cơ hội tạo phước.

Bấy giờ, có vị đại đệ tử của Đức Thế Tôn Atthadassī tên là Sāgara với thần lực của mình đã nghe được lời than vãn của dạ xoa, tôn giả Sāgara đã tiếp độ dạ xoa, chỉ dẫn tạo phước bằng cách cúng dường bảo tháp Xá Lợi của Đức Thế Tôn.

Vị dạ xoa hoan hỷ làm theo lời dạy của tôn giả Sāgara, hộ trì cúng dường bảo tháp Xá Lợi suốt 5 năm, khi mạng chung, được tái sanh làm vị thiên tử có đại thần lực do nhờ phước báu của sự cúng dường bảo tháp, rồi luân chuyển giữa hai cõi trời - người đều được an lạc.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, Ngài được tái sanh trong một gia đình trưởng giả, khi trưởng thành do duyên lành của quá khứ khiến cho công tử lần hồi đi đến nơi ngự của Đức Thế Tôn. Bấy giờ Đức Thế Tôn đang giáo giới chư tỳ khưu với bài kệ Adhicetaso (tăng thượng tâm: tức là pháp làm tăng trưởng tâm định). Công tử nghe được bài kệ ấy, phát khởi niềm tin xin xuất gia. Khi xuất gia, Ngài thường xuyên đọc tụng bài kệ ấy và thực hành sa môn pháp theo lời giáo giới này suốt 20000 năm, nhưng không chứng đắc pháp cao thượng vì trí tuệ chưa chín muồi.

Mạng chung, Ngài được tái sanh lên thiên giới, luân chuyển trong nhàn cảnh một thời gian dài. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, Ngài sanh vào một gia đình bàlamôn trưởng giả tại thành Sāvatthī, khi trưởng thành, một hôm, trong dịp Đức Thế Tôn nhận Jetavana (Kỳ Viên tịnh xá) từ trưởng giả Anāthapiṇḍika, vị bàlamôn này nhìn thấy tướng mạo quang minh cùng với uy hạnh của Đấng Đại Giác khiến ông phát khởi niềm tin xin xuất gia, xuất gia xong Ngài sống với hạnh trú trong rừng.

Một hôm, trưởng giả đi đến chỗ Đức Thế Tôn ngự, bấy giờ Đức Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh, nhìn thấy trưởng lão Xá Lợi Phất đang hướng đến Tăng thượng tâm, cách chỗ ngự của Đức Thế Tôn không xa, Đức Thế Tôn đã thuyết lên kệ ngôn rằng: Adhicetaso...

Trưởng lão nghe được bài kệ từ nơi Đức Thế Tôm, khi trở về trú xứ của mình, thường xuyên đọc lên bài kệ đó, do vậy trưởng lão mới có tên là Ekudāniyathera.

Khi tâm tư được tịnh tĩnh, trí tuệ đã chín muồi, trưởng lão phát triển thiền quán, chứng đạt Alahán. Như bài kệ trưởng lão nói lên trong Apadāna rằng:

"Thuở ấy Đức Thế Tôn
Hồng danh Atthadassī
Đã viên tịch níp bàn
Bấy giờ ta tái sanh
Là đại tướng dạ xoa
Có uy danh không nhỏ
Ta mới suy nghĩ rằng
Khi ta có tài sản
Thế Tôn lại níp bàn
Thật bất lợi cho ta
Thật đáng tiếc cho ta
Tôn giả Sāgara
Với thần lực của mình
Biết được tư tưởng ấy
Muốn nhổ lên gai sầu
Đi đến chỗ ta ngự
Nói lên những lời rằng
Vì sao ngươi phiền muộn
Ngươi chớ có lo buồn
Hãy lắng nghe, thực hành
Hỡi này người có trí
Đức Thế Tôn dạy rằng
Người nào cúng dường Phật
Khi Ngài còn tại thế
Hoặc cúng dường xá lợi
Khi Ngài đã níp bàn
Nếu tâm của người ấy
Hoan hỷ đồng như nhau
Thì quả phước tương đương
Vì vậy ngươi hãy tạo
Bảo tháp thờ xá lợi
Thế Tôn bậc chiến thắng
Sau khi nghe lời dạy
Tôn giả Sagāra
Ta kiến tạo bảo tháp
Ta hộ trì bảo tháp
Của bậc Đại Ẩn sĩ
Thời gian suốt 5 năm
Chính do nghiệp thiện đó
Ta sống trong an lạc
Và chứng quả vô sanh
Trong kiếp thứ 700
Kể từ hiền kiếp này
Bốn lần ta tái sanh
Làm Chuyển Luân Thánh Vương
Tên Bhūripaññā
Đầy đủ với bảy báu
Đến kiếp cuối cùng này
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão trú trong lạc giải thoát, một hôm, vị thủ kho chánh pháp đến thỉnh mời rằng: - Này hiền giả, xin hiền giả hãy thuyết pháp đến tôi.

Trưởng lão Ekudāniya thuyết lên bài kệ rằng:

"Tất cả sự sầu muộn
Không có cho tỳ khưu
Bậc có tăng thượng tâm
Trú pháp không dễ duôi
Bậc ẩn sĩ học tập
Trên con đường chánh trí
Thể nhập sự an tịnh
Chánh niệm trong mọi thời".

*

16- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO KHADIRAVANIYATA
KHADIRAVANIYATATHERAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Khadiravaniya nói lên bài kệ rằng:

"Hỡi này cháu Cāla
Cháu Upacāla Sīsūpacāla
Hãy an trú chánh niệm
Tôn giả đang đi đến
Là bậc có lợi tuệ
Như tay cung thiện xảo
Bắn chẻ chót lông thú"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, vị trưởng lão sanh vào một gia đình chủ tàu tại thành Haṃsāvati, sau khi trưởng thành đã phụ cha làm việc tại bến cảng Payāga.

Một hôm, Đức Thế Tôn cùng với chư tăng ngự đến bến cảng để sang bờ bên kia, Ngài thấy Đức Thế Tôn cùng chư tăng, phát khởi tâm trong sạch, sắp xếp một đoàn tàu đưa Đức Phật cùng chư tăng qua bên kia bờ.

Có lần, Ngài đến tịnh xá nghe pháp, thấy Đức Thế Tôn tán thán một vị tỳ khưu đệ nhất về hạnh ở rừng, Ngài vô cùng hoan hỷ, muốn được vị trí đó nên cung thỉnh Đức Phật cùng đại chúng Tỳ khưu về nhà cúng dường rồi nguyện dưới chân Đức Thế tôn cùng với sự chứng minh của chư tăng rằng:

- Do phước báu con cúng dường thực phẩm đến Thế Tôn cùng đại chúng tỳ khưu, xin cho con được vị trí thù thắng là đệ nhất hạnh ở rừng giống như vị tôn giả kia vậy.

Đức Thế Tôn sau khi dùng Phật nhãn quán chiếu, Ngài tuyên bố rằng:

- Trong tương lai, vào thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Gotama, nguyện vọng của ngươi sẽ được thành tựu.

Kể từ đó, Ngài luôn tích cực thực hành các thiện sự làm duyên cho nguyện vòng của mình được thành tựu mỹ mãn.

Sau khi mạng chung, nhờ sự trong sạch nơi Tam Bảo và những thiện sự đã tích luỹ vị ấy sanh lên thiên giới, hưởng đầy đủ những thiên lạc thù thắng của cõi trời, rồi sanh xuống cõi người cũng hưởng đầy đủ những nhân lạc nơi nhân giới, luân chuyển như vậy mãi cho đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta. Ngài tái sanh vào bào thai của nữ bàlamôn Rūpasārī tại làng Nālaka xứ Magadha.

Sau khi sanh ra, cha mẹ đặt tên là Revata, khi Revata trưởng thành, cha mẹ lo sợ sẽ theo vị sư huynh là trưởng lão Saripuṭṭa (Xá Lợi Phất) đi xuất gia nên cột trói Revata bằng cách ép chàng cưới vợ. Revata khi biết được tin anh mình đã xuất gia, suy nghĩ rằng: "Anh ta đã từ bỏ gia sản này đi xuất gia, chẳng lẽ ta lại nuốt cục nước bọt mà anh ta đã nhổ bỏ sao?". Sau khi suy nghĩ như thế, Revata phát sanh sự kinh cảm giống như con vật đang tiến vào bẫy, Revata tìm cơ hội gạt gia đình, trốn đi đến chỗ chư tăng ngự, trình cho chư tăng biết mình là em của trưởng lão Sariputta và ngỏ ý được xuất gia.

Chư tỳ khưu cho Revata xuất gia sadi, rồi khi tròn đủ hai mươi tuổi, chư tăng cho thọ cụ túc giới và chỉ dẫn thực hành samôn pháp. Tôn giả Revata sau khi tín thọ lời dạy của chư tăng, Ngài đi đến khu rừng Simpali và khởi lên tư tưởng rằng: - "Khi nào ta chứng quả vô sanh, ta mới đi đến yết kiến Đức Thế Tôn và sư huynh của ta". Rồi Ngài tinh cần nỗ lực hành pháp sa môn, không bao lâu chứng đạt lục thông.

Như bài kệ trưởng lão nói lên trong Apadāna rằng:

"Trên dòng sông Gangā
Tên Bhāgīrathī
Sanh từ vùng Hy Mã
Ta làm người lái đó
Tại bến sông khúc khuỷu
Đưa người từ bờ này
Sang bên kia bờ sông
Đức Chánh Đẳng Chánh Giác
Padumuttara
Bậc Đạo sư thế gian
Tối thượng hơn các loài
Cùng một ức tỳ kheo
Bậc vô lậu giải thoát
Muốn đi qua sông ấy
Ta tập trung các tàu
Được trang bị tốt đẹp
Rồi cung thỉnh Thế Tôn
Cùng chư tôn ngự lên
Khi ra đến nửa sông
Thế Tôn phán kệ rằng
Người nào đưa Như Lai
Cùng chư tăng vô lậu
Với tâm trong sạch ấy
Sẽ tái sanh thiên giới
Có thiên cung xinh đẹp
Hình dáng như chiếc tàu
Trong kiếp thứ 58
Sẽ làm Chuyển Luân Vương
Danh xưng Tāsaka
Cai trị cả địa cầu
Bốn biển là ranh giới
Trong kiếp thứ 57
Sanh làm Sát-đế-ly
Có danh xưng Cammaka
Có sức mạnh phi thường
Sáng chói như thái dương
Đến kiếp 100.000
Trong thời kỳ giáo pháp
Thế Tôn Gotama
Người ấy từ Đạo Lợi
Sanh xuống cõi nhân loại
Làm con bàlamôn
Có tên Revata
Sẽ từ bỏ gia đình
Xuất gia trong giáo pháp
Của Đức Thế Tôn ấy
Do nhiệt tâm tinh cần
Thực hành samôn pháp
Trải qua không bao lâu
Lậu hoặc được đoạn trừ
Nay là thân cuối cùng
Trong giáo Pháp của Phật
Nghiệp nào ta đã tạo
Trong ức kiếp về trước
Cho quả báo đời này
Giúp ta đốt phiền não
Như tên thoát khỏi cung
Lao vun vút trong gió
Lúc ấy Đức Thế Tôn
Bậc thông suốt thế gian
Thấy tâm ta thoả thích
Với việc ngụ trong rừng
Mới xác nhận vị trí
Đệ nhất hạnh ẩn lâm
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".

Sau khi chứng đạt lục thông, trưởng lão dọn dẹp trú xứ, cầm y bát, tuần tự du hành đến Jetavanavihāra trong thành Sāvatthī vào đảnh lễ yết kiến Đức Thế Tôn và trưởng lão Sārīputtā.

Một hôm, nhân lúc chư tăng câu hội đông đảo, bậc đạo sư ngồi giữa tăng chúng đã xác nhận vị trí của trưởng lão rằng:

"Này chư tỳ khưu, Revatakhadiravaniya là người thù thắng hơn chư tỳ khưu về hạnh ở rừng".

Sau đó, trưởng lão trở về quê quán của mình, dẫn 3 đứa cháu trai tên là Cāla, Upacāla, Sīsūpacāla là con của ba người chị là Cālā, chị Upācālā và chị Sisūpacāla đến chỗ chư tăng cho xuất gia sadi và chỉ dẫn đề mục nghiệp xứ cho ba vị ấy tu tập.

Có lần trưởng lão Revata thọ bệnh, trưởng lão Sarīputta hay tin, đi đến chỗ vị sư đệ ngụ với tác ý rằng:

- Ta sẽ hỏi thăm bệnh trạng và đạo quả mà sư đệ đã đắc chứng.

Trưởng lão Revata thấy vị tôn huynh từ xa đi đến, nhắc nhở 3 vị sadi hãy an trú chánh niệm bằng bài kệ rằng:

"Hỡi này cháu Cāla
Cháu Upacāla Sīsūpacāla
Hãy an trú chánh niệm
Tôn giả đang đi đến
Là bậc có lợi tuệ
Như tay cung thiện xảo
Bắn chẻ chót lông thú"

Các vị sadi nghe xong bài kệ ấy, làm phận sự của mình: đứng dậy tiếp rước, đảnh lễ trưởng lão Sārīputta rồi ngồi thiền định không xa nơi ấy. Khi hai vị trưởng lão vấn an lẫn nhau xong rồi, trưởng lão Sārīputta rời chỗ ngồi đi tìm 3 vị sadi. Ba vị đứng lên vái chào, trưởng lão hỏi rằng:

- Các con đang trú với pháp gì?

Các sadi tuần tự đáp rằng:

- Chúng con trú với pháp này, pháp này...

Trưởng lão Sārīputta tán thán vị sư đệ rằng: - Sư đệ chỉ dẫn ba vị sadi như vậy, được gọi là tuỳ Pháp và thuận Pháp.

Rồi trưởng lão trở về trú xứ của mình.

*

17- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO SAMBHŪTA
SAMBHŪTHERAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Sambhūta nói lên bài kệ rằng:

"Vị tỳ khưu đi đến
Rừng Sītavana
Sống độc cư biết đủ
Tâm tư khéo định tĩnh
Chiến thắng, không kinh sợ
Trí tuệ hộ niệm thân".

Ngược dòng thời gian cách nay 118 đại kiếp, có vị Chánh Đẳng Giác với hồng danh Atthadassī sanh lên trong thế gian, tiếp độ quần sanh vượt khỏi bộc lưu luân hồi.

Một hôm, Thế Tôn ngự đến bờ sông Hằng Gangā cùng với đại chúng tỳ kheo.

Vào thời ấy, vị trưởng lão này sanh vào một gia đình tộc trưởng, lúc ấy chàng thanh niên tộc trưởng này cũng đi đến bờ sông, thấy Đức Thế Tôn cùng chư tăng, phát tâm trong sạch đến đảnh lễ Ngài và hỏi rằng:

- Kính bạch Ngài! Có phải Ngài muốn sang sông chăng"

Đức Thế Tôn phán rằng: "Ta sẽ đi".

Chàng liền sắp đạt một đoàn tàu rồi cung thỉnh Đức Phật cùng chư tăng ngự lên tàu, tự thân điều khiển đoàn tàu đưa Đức Phật cùng chư tăng sang bờ bên kia một cách an toàn. Hôm sau, chàng hoan hỷ thiết lễ cúng dường vật thực đến Đức Phật cùng chư tăng, rồi đảnh lễ Đức Thế Tôn và tăng chúng quay trở về.

Mạng chung, do thiện sự ấy, chàng tái sanh về thiên giới và chỉ luân chuyển giữa hai cõi nhân – thiên.

Trong kiếp thứ 113, chàng được sanh làm Chuyển Luân Vương, cai trị quốc độ theo Thập-vương-pháp, dẫn dắt mọi người đi trên con đường nhàn cảnh.

Trong kiếp thứ 91, nhằm thời giáo pháp của Đức Thế tôn Vipassī, chàng xuất gia trong giáo pháp của Ngài, sau khi xuất gia Ngài hạnh đầu đà ngụ ở rừng và tinh cần hành đạo.

Vào thời giáo pháp của Thế Tôn Kassapa, Ngài cùng ba người bạn xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy, thực hành samôn pháp đến hai mươi ngàn năm, rồi luân chuyển giữa nhân thiên suốt một thời gian dài.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hiện tại, ngài sanh vào một gia đình bàlamôn danh tiếng tại thành Rājagaha và được đặt tên là Sambhūta. Khi trưởng thành, Sambhūta đã thành tựu các nghệ thuật bàlamôn.

Một hôm, do duyên lành tròn đủ, Sambhūta cùng ba người bạn là Bhūmiya, Jeyyasena và Abhirādhana đi đến chỗ Đức Thế Tôn để thính Pháp, phát khởi niềm tin xin xuất gia trong giáo pháp của Ngài.

Trưởng lão Sambhūta học Pháp môn thân hành niệm từ Đức Thế tôn, rồi đến rừng Sītavana tu tập do nhân đó, trưởng lão mới có tên là "Sītavanīya".

Lúc bấy giờ, Đức Thiên Vương Vessvaṇṇa ngự giữa hư không, xoay mặt nhìn về hướng nam của cõi Diêm phù đề (Jambūdīpa), thấy trưởng lão ngồi trong Abbhokāsa (là ngoài trời nơi không có che lợp), hướng tâm đến đề mục thiền tịnh của mình, Đức Thiên Vương rời khỏi thiên cung ngự xuống đảnh lễ trưởng lão rồi truyền bảo hai dạ xoa rằng:

- Khi trưởng lão xả thiền hãy báo tin cho ta biết và hãy phòng hộ trưởng lão.

Rồi Ngài ngự đi, hai dạ xoa đứng hầu trưởng lão bàn luận với nhau về điều hy hữu này, khi trưởng lão vừa xả đề mục nghe được những lời đàm luận của hai dạ xoa, trưởng lão bảo chúng rằng:

- Ngươi hãy về thưa lại với Thiên Vương Vessavaṇṇa rằng: "Niệm là Pháp phòng hộ được Đức Thế Tôn chỉ dạy cho chư đệ tử của Ngài, Thiên Vương hãy từ bỏ sự quan tâm trong cách hộ trì ấy đi, sự phòng hộ như thế sẽ không có với người đã tín thọ lời giáo giới của Đức Thế Tôn".

Trưởng lão cho hai dạ xoa trở về, còn mình tiếp tục phát triển thiền quán và chứng đạt tam minh ngay sau đó.

Không bao lâu, Đức Thiên Vương Vessavaṇṇa (Đa văn thiên vương) trở lại, đi đến gần trưởng lão, Đức Thiên Vương khéo quan sát nhận biết trưởng lão đã chứng đạt quả vị Alahán, Thiên Vương đi đến thành Sāvatthī, vào đảnh lễ Đức Thế Tôn và trước mặt Đức Thế Tôn tán thán những đức hạnh của trưởng lão bằng bài kệ rằng:

"Trưởng lão Sambhūta
Đầy đủ niệm, phòng hộ
Có tuệ, có tinh cần
Là con của Thế Tôn
Tam minh đã chứng đạt
Vượt qua bờ thần chết".

Do nhân đó, trưởng lão mới nói lên bài kệ trong Apadāna rằng:

"Thuở ấy Đức Thế Tôn
Hồng danh Atthadassī
Chúa tể loài hai chân
Cao thượng hơn Nara
Đoanh vây với Thinh Văn
Ngự đến bờ sông Hằng
Dòng sông đầy ấp nước
Loài quạ đứng uống được
Rất khó để vượt qua
Ta đưa Đức Thế Tôn
Cùng đại chúng tỳ kheo
Vượt qua dòng sông ấy
Kể từ hiền kiếp này
Đến kiếp 118
Ta làm thiện nghiệp nào
Chính do thiện nghiệp đó
Ta không biết khổ cảnh
Trong kiếp 113
Ta 5 lần được làm
Vua Chuyển Luân Thánh Vương
Tên Sabbobhava
Đầy đủ với bảy báu
Trong kiếp cuối cùng này
Sanh làm bàlamôn
Ta tu trong giáo pháp
Của Đức Thế Tôn ấy
Cùng với 3 người bạn
Ta thiêu đốt phiền não
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Một hôm, trưởng lão Sambhūta thấy chư tỳ khưu đi yết kiến Đức Thế Tôn mới nói rằng:

- Này các hiền giả! Các hiền giả hãy thay mặt tôi đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn và nói lên bài kệ rằng:

Yo sītavanaṃ...

Các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đảnh lễ Đức Thế tôn và thuật lại lời của trưởng lão Sambhūta rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Trưởng lão Sambhūta xin đảnh lễ dưới chân Đức Thế tôn và nhắn gởi bài kệ rằng:

"Vị tỳ khưu đi đến
Rừng Sītavana
Sống độc cư biết đủ
Tâm tư khéo định tĩnh
Chiến thắng, không kinh sợ
Trí tuệ hộ niệm thân".

Đức Thế Tôn nghe lời ấy rồi phán rằng:

- Này chư tỳ khưu, Sambhūta là bậc hiền trí, hành pháp và tuỳ pháp, không phiền nhiễu Như Lai. Về chuyện của Sambhūta thiên vương Vessavaṇṇa đã nói với Như Lai rồi.

*

18- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO VANAVACCHA
VANAVACCHATHERAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Vanavacchā nói lên bài kệ rằng:

"Các ngọn núi toàn đá
Có màu xanh như mây
Lấp lánh thật xinh đẹp
Có nước mát tinh anh
Từng đàn Indagopaka
Những ngọn núi đá này
Làm tâm ta hân hoan"

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Atthadassī, trưởng lão tái sanh làm rùa chúa, sống tại dòng sông Vinatā, con rùa ấy có thân hình khá to.

Một hôm, rùa nhìn thấy Đức Thế Tôn đứng tại mé sông, nghĩ rằng: "Có lẽ Ngài muốn sang bờ bên kia". Rùa bơi đến chỗ Đức Phật với tác ý thỉnh Ngài ngự lên lưng mình. Đức Thế Tôn biết tâm ý rùa, để tiếp độ nó, Ngài ngự lên lưng rùa. Chú rùa vô cùng thoả thích, bơi thật nhanh đưa Đức Thế Tôn sang bờ bên kia ví như mũi tên lao ra khỏi dây cung.

Khi mạng chung, chú rùa được tái sanh thiên giới do thiện nghiệp đó, luân chuyển trong cõi người và cõi trời. Trong những kiếp sanh làm người, chú rùa xuất gia làm đạo sĩ và sống độc cư trong rừng.

Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, Ngài (chú rùa) được tái sanh trong một gia đình tại thành Bārānasī, khi trưởng thành Ngài từ bỏ thế tục, sống đời xuất gia và tích trữ nhiều phước lành giải thoát.

Vào thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hiện tại, Ngài tái sanh vào một gia đình bàlamôn dòng Vaccha, tại thành Kapilavatthu. Khi thai gần tròn 10 tháng, người mẹ ao ước đi vào rừng dạo cảnh và bà thực hiện ý muốn này. Trong lúc đang đi dạo, bà chuyển bụng, những người hầu căng màn và bà hạ sanh một bé trai đầy đủ những hảo tướng của người hữu phước. Công tử này là bạn chơi đùa với Bồ Tát từ Thuở nhỏ, có họ tên là Vaccha, về sau lại có tên là Vanavaccha vì người mẹ có tâm hoan hỷ với cảnh rừng núi (Vana: nghĩa là rừng).

Khi Bồ Tát rời bỏ hoàng cung, xuất gia sống thanh tu khổ hạnh, Vaccha cũng từ bỏ gia đình đi xuất gia với suy nghĩ rằng: "ta sẽ vào rừng sống với Siddhattha" rồi đi vào rừng Hy mã lạp sơn.

Khi Bồ Tát chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng Giác và khai thị pháp luân, đạo sĩ Vaccha đi đến Đức Thế Tôn xin xuất gia rồi nhiệt tâm tinh cần phát triển thiền quán, không bao lâu chứng đạt Alahán.

Như bài kệ trưởng lão nói lên trong Apadāna rằng:

"Thuở ấy Đức Thế Tôn
Hồng danh Atthadassī
Đấng Như Lai ngự đến
Bờ sông Vinatā
Bấy giờ ta là rùa
Bơi lặn trong dòng nước
Ta thấy Đức Thế Tôn
Có ý muốn sang sông
Ta bơi đến chỗ Ngài
Bậc nương tựa thế gian
Với tác ý như vầy
Xin thỉnh Đại ẩn sĩ
Hồng danh Atthadassī
Hãy ngự lên lưng con
Con đưa Ngài qua sông
Xin Ngài hãy từ bi
Tiếp độ con hết khổ
Khi ấy, Đức Thế Tôn
Biết tâm tư của ta
Ngài ngự lên lưng ta
Ta vô cùng hoan hỷ
Với thiện sự ta làm
Sau khi đã sang bờ
Đức Thế Tôn ngự lên
Ngài phán bài kệ rằng
Ta vượt qua dòng sông
Trong thời gian tích tắc
Với phước báu rùa chúa
Đưa Như Lai sang sông
Rùa sẽ được an lạc
Trong thiên giới 118 kiếp
Từ cõi trời đến người
Được thiện nghiệp dẫn dắt
Ví như ít hạt giống
Gieo vào thửa ruộng tốt
Mưa rơi xuống thích hợp
Trổ quả thật hoan hỷ
Cũng vậy nay ta được
Những thiện nghiệp kết duyên
Ta đạt được tịch tịnh
Chấm dứt các sanh y
Đoạn trừ các lậu hoặc
Trong kiếp 118
Ta làm thiện sự nào
Do quả thiện sự đó
Ta không biết khổ cảnh
Nay là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".

Đức Thế Tôn sau khi chuyển pháp luân, Ngài tuần tự du hành về thành Kapilavatthu để tiếp độ phụ vương Suddhodana (Tịnh Phạn) cùng quyến thuộc, trưởng lão Vanavaccha cũng đi đến kinh thành, vào đảnh lễ yết kiến Đức Thế Tôn và trong một buổi hội họp đàm đạo với chư tỳ khưu, chư tỳ khưu hỏi trưởng lão rằng: an vui chăng?

Trưởng lão Vanavaccha đáp rằng:

- Các khu rừng, các ngọn núi thật đáng hoan hỷ.

Và để diễn tả khu rừng mình ở, trưởng lão nói lên bài kệ rằng:

"Các ngọn núi toàn đá
Có màu xanh như mây
Lấp lánh thật xinh đẹp
Có nước mát tinh anh
Từng đàn Indagopaka
Những ngọn núi đá này
Làm tâm ta hân hoan"

*

19- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO YASA
YASATHERAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Yasa nói lên bài kệ rằng:

"Khéo thoa sức, khéo mặc
Dùng các loại thời trang
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

Trưởng lão đã tích trữ nhiều thiện duyên giải thoát với chư Phật quá khứ như trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Sumetha, trưởng lão sanh làm Long Vương có nhiều thần lực.

Một hôm, Long Vương nhìn thấy Đức Thế Tôn đầy đủ hảo tướng của bậc đại nhân cùng với uy nghi của bậc Chánh Đẳng Giác, nên Ngài phát khởi niềm tin trong sạch, cung thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư tỳ khưu tăng ngự xuống cõi rồng. Long vương thiết lễ trai đàn cúng dường thực phẩm, tam y và các vật phụ tùng đến Đức Phật cùng chư tăng với tấm lòng trong sạch, tôn kính và hoan hỷ. Do thiện sự đó, khi mạng chung Long vương tái sanh về nhàn cảnh, hưởng quả phước thù thắng trong nhàn cảnh. Sau khi luân chuyển hưởng phước trong cõi trời và cõi người một thời gian dài, đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Siddhattha, Long vương được tái sanh làm con trai gia đình đại trưởng giả. Do có duyên lành quá khứ làm nền tảng, chàng đã trong sạch cúng dường đại thọ Bồ Đề với bảy loại báu vật.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, vị này đã từ bỏ mọi ràng buộc thế tục, xuất gia trở thành vị tỳ khưu chân chánh trong giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa. Khi mạng chung, với phước báu tích trữ được, vị này chỉ tái sanh trong nhàn cảnh.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn hiện tại, Ngài tái sanh làm con trai độc nhất của gia đình đại trưởng giả danh tiếng tại thành Bārānasī có tên là Yasa. Vì là con độc nhất của một gia đình giàu có, nên từ nhỏ Yasa được bảo bọc một cách cẩn thận chu đáo như bảo vật của gia tộc.

Xứ Ấn Độ bấy giờ có ba mùa: mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa. Yasa có ba toà lâu đài, được xây dựng thiết kế thích hợp theo từng mùa, trong mỗi toà lâu đài, được trang bị đầy đủ những tiện nghi vật chất sang trọng nhất thời bấy giờ cùng với những mỹ nữ tùy tùng hầu hạ. Cuộc sống của công tử Yasa gần như đời sống của bậc Đế vương.

Nhưng cho dầu đời sống có cao sang đến đâu, vật chất có đầy đủ đến đâu làm sao có thể ràng buộc lôi cuốn tâm tư của người đã đầy đủ túc duyên giải thoát, thế là duyên lành ấy đã đến.

Một hôm, sau buổi dạ hội yến tiệc, tất cả đều mệt nhoài. Công tử Yasa về phòng của mình yên nghỉ, các mỹ nữ ca kỹ, các nàng hầu cũng lã người, nằm ngủ lăn lóc bên phòng ngoài. Nửa đêm công tử Yasa chợt thức giấc, bước ra ngoài để tìm chút không khí mát dịu thoải mái của thiên nhiên công tử nhìn thấy những cảnh tượng bất tịnh của các mỹ nữ, ca kỹ phơi bày ra trước mắt. Quá kinh cảm trước những cảnh tượng này, công tử mang đôi giày vàng, lặng lẽ rời khỏi lâu đài và được chư thiên mở cửa thành. Công tử rời khỏi kinh thành, trong lòng miên man sầu muộn, công tử cứ đi, đi mãi và cất tiếng than rằng: "Thật bất an thay! Thật phiền muộn thay!".

Bấy giờ Đức Thế Tôn ngự tại Isipatanamigadāya (vườn Lộc Uyển) đang đi kinh hành, do duyên lành giải thoát của Yasa chín muồi nên Ngài ngự đến đây để tiếp độ. Đức Thế Tôn thấy công tử từ xa đi đến, cất lên những tiếng than thở, Ngài mới phán rằng: "Hãy đến này Yasa, ở đây không có bất an, ở đây không có phiền muộn".

Yasa trong lòng đang quẩn rối chợt nghe, âm vang êm dịu ấm áp rằng: "Ở đây không có bất an, ở đây không có phiền muộn". Chàng như người đang mê chợt tỉnh, mừng rỡ tháo đôi giày vàng, tiến đến quỳ xuống đảnh lễ Đức Thế Tôn như để tìm một sự nương tựa an ổn, rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết tuần tự pháp (Anudhammakathā: tuần tự pháp là nói về bố thí, giới hạnh, quả lành thiên giới, nguy hiểm của ngũ trần dục lạc, sau cùng là lợi ích của hạnh viễn ly dục lạc xuất gia) để làm cho tâm Yasa thấm nhuần và trú trong chánh pháp, rồi Ngài thuyết lên Tứ Diệu đế (một bài pháp có ý nghĩa đặc thù đã đem lại giác ngộ cho vô số chúng sanh) Đức Thế Tôn vừa thuyết xong bốn sự thật của bậc thánh, công tử Yasa chứng quả dự lưu, pháp nhãn ly trần cấu phát sanh cho Yasa. Và khi Đức Thế Tôn thuyết bài pháp Tứ Diệu đế để tiếp độ thân phụ của Yasa thì chàng công tử này chứng đạt quả vị vô sanh.

Như bài kệ, trưởng lão nói trong Apadāna rằng:

"Cõi của ta chìm sâu
Trong đại dương thăm thẳm
Có hồ nước xinh đẹp
Muôn chim cất tiếng hót
Có các loại hoa sen
Sen xanh, trắng và hồng
Cùng hoa súng tươi thắm
Cảnh vật thật hữu tình
Chính tại hồ nước ấy
Có các loại châu báu
Cùng các loại thảo mộc
Toả hương thơm khắp nơi
Ta rời khỏi cõi rồng
Ngao du đến cõi người
Ta nhìn thấy Đức Phật
Hồng danh Sumedha
Bậc đạo sư thế gian
Ta phát tâm tịnh tín
Đảnh lễ Đức Thế Tôn
Cúi đầu bái thỉnh Ngài
Cùng đại chúng tỳ khưu
Ngự xuống lãnh địa ta
Thế Tôn đã nhận lời
Rồi Ngài giảng chánh pháp
Cho tâm ta hoan hỷ
Ta đảnh lễ cáo lui
Trở về nơi long cung
Ta gọi các tuỳ tùng
Bảo chúng lo chuẩn bị
Thực phẩm cùng các thứ
Ta thiết lễ cúng dường
Đến Thế Tôn, đại sĩ
Cùng chư tôn đức tăng
Rồi thời giờ đã đến
Đức Phật Sumedha
Cùng 100.000 vị
Alahán vô lậu
Đã ngự đến chỗ ta
Ta đã chọn cúng dường
Những thực phẩm thượng vị
Cùng các món phụ tùng
Làm đầy đủ thoả mãn
Đức Phật cùng Chư tăng
Với các món ăn ấy
Xong ta cúng dường y
Đến toàn thể quý Ngài
Sau khi thọ thực xong
Thế Tôn Sumedha
Bậc Ứng cúng thế gian
Ngự toạ giữa chư tăng
Nói lên bài kệ rằng:
"Người nào tâm trong sạch
Phục vụ và cúng dường
Như Lai cùng chư tăng
Với cơm nước thực phẩm
Các ngươi hãy lắng nghe
Ta tiên đoán người ấy
Sẽ tái sanh thiên giới
Thọ hưởng những thiên lạc
Suốt 1.800 kiếp
1.000 lần được sanh
Làm Chuyển Luân Thánh Vương
Trong những kiếp chuyển sanh
Dù cõi trời hay người
Đều sống trong an lạc
Đến thời kỳ giáo pháp
Thế Tôn Gotama
Người ấy sẽ thừa tự
Giáo pháp Thế Tôn ấy
Các lậu hoặc đoạn tận
Là người đạt tịch tịnh
Trong kiếp 30.000
Kể từ hiền kiếp này
Với sự cúng dường nào
Chính do thiện sự ấy
Ta không biết khổ cảnh
Đến kiếp cuối cùng này
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".

Kế đó, Đức Thế Tôn đưa cánh tay phải ra, phán rằng:

- Này thiện lai tỳ khưu, Đức Phật vừa dứt lời tôn giả Yasa râu tóc biến mất, có đầy đủ y bát và đồ phụ tùng giống như một vị trưởng lão 60 hạ vậy. Sau khi chứng quả Alahán và trở thành vị tỳ khưu Ehibhikkhu, lúc quán xét lại công hạnh của mình, trưởng lão nói lên bài kệ rằng:

"Khéo thoa sức, khéo mặc
Dùng các loại thời trang
Tam minh ta chứng đạt
Lời Phật dạy làm xong".

*

20- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO MAHĀNĀMA
MAHĀNAMATHERAGĀTHĀ

Được biết trưởng lão Mahānāma nói lên bài kệ rằng:

"Này Mahānāma
Người sẽ bị suy vong
Từ núi Nesādaka
Một ngọn núi thích hợp
Có cây cao bóng mát
Và dây leo phủ kín".

Trưởng lão tích trữ nhiều duyên lành giải thoát với chư Phật quá khứ như trong thời giáo pháp của Đức Thế tôn Sumedha, trưởng lão sanh trong một gia đình bàlamôn, khi trưởng thành được cha mẹ cho đi học những nghệ thuật từ các vị danh sư bàlamôn, với tư chất thông minh và cần mẫn, không bao lâu chàng đã thành tựu các học nghệ và chú thuật. Do thiện duyên thúc đẩy, chàng cảm thấy chán ngán đời sống thế tục, từ bỏ mọi ràng buộc của đời thường đi vào rừng xuất gia làm đạo sĩ, dựng lên một am thất bên bờ sông và dạy chú thuật cho những thanh niên bàlamôn.

Một hôm, vào rạng sáng Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn chiếu rọi thế gian, nhìn thấy vị đạo sĩ này hữu duyên, Ngài đắp y mang bát ngự đến chỗ đạo sĩ để tiếp độ.

Đạo sĩ nhìn thấy Đức Phật với lục căn thanh tịnh, màu da sáng chói cùng với sự uy nghi của bậc Chánh Đẳng Giác, phát khởi tâm trong sạch kính ngưỡng, sắp đặt chỗ ngồi cung thỉnh Thế Tôn ngự toạ, khi Thế Tôn ngự toạ trên chỗ ngồi ấy rồi, đạo sĩ lấy mật ong đến cúng dường.

Đức Thế Tôn dùng mật ong xong, Ngài chúc phúc an lành đến đạo sĩ.

Do thiện nghiệp này, khi mạng chung đạo sĩ được sanh lên thiên giới, hưởng đầy đủ những thiên lạc thù thắng nơi cõi ấy. Khi chấm dứt thọ mạng nơi thiên giới đạo sĩ sanh xuống cõi người và trong suốt vòng luân chuyển sanh tử, vị ấy luôn sống trong an lạc.

Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, đạo sĩ tái sanh trong một gia đình bàlamôn tại thành Sāvatṭṭhī và có tên là Mahānāma.

Khi trưởng thành, do duyên lành giải thoát chín muồi, Mahānāma đến chùa nghe pháp, khởi lòng tin xin xuất gia.

Sau khi xuất gia, tôn giả Mahānāma học đề mục thiền quán rồi đến sống tại ngọn núi Nesādaka, trong thời gian tu tập tại đây những tư duy bất thiện cứ khởi lên mãi, không chế ngự được nó, tôn giả Mahānāma suy nghĩ rằng: "Đời sống của ta có lợi ích gì, với tâm tư uế nhiễm như vầy?" Tôn giả tự chán ghét mình, leo lên đỉnh núi như muốn lao mình xuống vực, tôn giả nói với mình như nói với một người khác "ta sẽ cho nó rơi từ trên đỉnh núi này xuống vực thẳm" bằng bài kệ rằng:

"Này Mahānāma
Người sẽ bị suy vong
Từ núi Nesādaka
Một ngọn núi thích hợp
Có cây cao bóng mát
Và dây leo phủ kín".

Tôn giả Mahānāma, tự răn đe doạ dẫm mình như thế, rồi phát triển thiền quán chứng quả Alahán. Như bài kệ trưởng lão đã nói trong Apadāna rằng:

"Ta dựng một am thất
Xinh đẹp và khả ái
Gần sông Sinadhu
Ta giảng kinh phệ đà
Cùng với cách xem tướng
Đến các nhóm học trò
Các học trò của ta
Ưa thích pháp ta dạy
Chúng lắng nghe học tập
Và tiếp thu thật tốt
Chúng thành đạt tất cả
Những gì ta truyền đạt
Bấy giờ Đức Thế Tôn
Hồng danh Sumedha
Ngự sanh trong thế gian
Bậc đem đến an lạc
Ngài muốn tiếp độ ta
Ngự đến bờ sông ấy
Ta thấy bậc Đại hùng
Bậc Đạo sư thế gian
Ta hoan hỷ trải cỏ
Sắp đặt một chỗ ngồi
Dâng đến Đức Thế tôn
Rồi ta vào lấy mật
Tâm trong sạch, dâng Ngài
Thế Tôn khi dùng xong
Ngài phán lên như vầy
Người nào tâm trong sạch
Dâng mật ong đến ta
Với hai tay của mình
Các ngươi hãy lắng nghe
Ta tuyên bố người ấy
Do việc cúng dường mật
Và trải cỏ dâng ta
Người ấy sẽ hân hoan
Trong thiên giới, trải suốt
Đến ba mươi ngàn kiếp
Vào kiếp 30.000
Thế Tôn Gotama
Ngự sanh trong thế gian
Người ấy sẽ thừa tự
Giáo pháp của Thế Tôn
Sẽ đoạn tận lậu hoặc
Đạt tịch tịnh Níp bàn
Khi ta từ thiên giới
Tái sanh vào mẫu thai
Từng hạt mật rơi xuống
Phủ kín cả mặt đất
Khi ta rời thai bào
Giọt mật rơi cho ta
Đầy ắp cả bình lớn
Khi ta rời gia đình
Xuất gia sống phạm hạnh
Ta luôn được đầy đủ
Với vật thực vật dụng
Đây chính là quả báu
Của việc cúng dường mật
Và ta chứng vô lậu
Cũng do thiện sự ấy
Sau khi mưa rơi xuống
Các cây cỏ mọc lên
Các cây dọc bờ sông
Cũng trổ hoa đầy khắp
Ta không còn phiền não
Dù gốc cây, nhà trống
Ta luôn được an lạc
Ta vượt qua các cõi
Thấp cao và trung bình
Và trong ngày hôm nay
Ta đoạn trừ tất cả
Các lậu hoặc phiền não
Sanh hữu mới không còn
Trong kiếp 30.000
Kể từ hiền kiếp này
Ta đã cúng dường gì
Chính do thiện sự đó
Ta không biết khổ cảnh
Đây là kiếp cuối cùng
Ta thiêu đốt phiền não...
Lời Phật dạy làm xong".

-ooOoo-

 Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | Mục lục


Chân thành cám ơn Tỳ khưu Chánh Minh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 02-2005).


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 04-03-2005