Guong bac xuat gia - 3.6

Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

GƯƠNG BẬC XUẤT GIA
(Anagāriyūdāharana)

Dhammarakkhita Bhikkhu
(Tỳ khưu Hộ Pháp)


Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)

ĀPATTI VỚI TỲ KHƯU

Bậc Tỳ khưu với āpatti liên quan với nhau. Āpatti chỉ phát sanh đối với Tỳ khưu, và cũng chỉ có Tỳ khưu thật mới phạm āpatti mà thôi.

Āpatti là gì? Āpatti là sự phạm giới Tỳ khưu.

Tỳ khưu giới, trong Bhikkhupātimokkha có 227 điều học, trong Luật tạng kể đầy đủ có 91.805.036.000 điều học [Bộ Visuddhimagga, phần Sīlaniddesa].

Trong Bhikkhupātimokkha có 227 điều học, phân chia làm 7 loại giới:

1- Giới Pārājika (Bất cộng trụ) gồm có 4 điều học.
2- Giới Saṃghādisesa (Tăng tàn) gồm có 13 điều học.
3- Giới Aniyata (Bất định) gồm có 2 điều học.
4- Giới Nissaggiya (Ưng xả đối trị) gồm có 30 điều học.
5- Giới Pācittiya (Ưng đối trị) gồm có 92 điều học.
6- Giới Pāṭidesanīya gồm có 4 điều học.
7- Giới Sekhiya gồm có 75 điều học.

Trong 7 loại giới này phân chia có 7 loại Āpatti:

1- Pārājika āpatti: sự phạm giới Pārājika.
2- Saṃghādisesa āpatti: sự phạm giới Saṃghādisesa.
3- Thullaccaya āpatti: sự phạm giới trọng.
4- Pācittiya āpatti: sự phạm giới Pācittiya.
5- Pāṭidesanīya āpatti: sự phạm giới Pāṭidesanīya.
6- Dukkaṭa āpatti: sự phạm giới Dukkaṭa (tác ác).
7- Dubbhāsita āpatti: sự phạm giới Dubbhāsita (ác khẩu).

Trong 7 loại āpatti này phân chia làm 2 loại:

1- Garuka āpatti: Āpatti nặng gồm có Pārājika āpatti và Saṃghādisesa āpatti. Gọi là āpatti nặng, vì không thể sám hối được, chỉ có thể trình cho chư Tăng biết mà thôi.

2- Lahuka āpatti: Āpatti nhẹ gồm có 5 loại còn lại: Thullaccaya āpatti, Pācittiya āpatti, Pāṭidesanīya āpatti, Dukkaṭa āpatti, Dubbhāsita āpatti. Gọi là āpatti nhẹ, vì Tỳ khưu có thể sám hối với một vị Tỳ khưu khác, sau khi sám hối āpatti xong, giới trở nên trong sạch trở lại.

Giải Thích:

1- Pārājika āpatti: sự phạm giới pārājika (bất cộng trụ)

Giới pārājika (bất cộng trụ) có 4 điều học. Nếu Tỳ khưu nào phạm 1 trong 4 điều học này, Tỳ khưu ấy gọi là phạm giới pārājika, không còn là Tỳ khưu nữa.

Tỳ khưu ấy muốn thoát khỏi Pārājika āpatti, bắt buộc phải hoàn tục trở thành người cận sự nam, hoặc xuống bậc thấp Sa di. Trong kiếp hiện tại, người cận sự nam ấy hoặc vị Sa di ấy không thể nào thọ Tỳ khưu được nữa.

2- Saṃghādisesa āpatti: sự phạm giới Saṃghādisesa

Giới Saṃghādisesa (Tăng tàn) có 13 điều học. Nếu vị Tỳ khưu nào phạm 1 trong 13 điều học này, vị Tỳ khưu ấy gọi là phạm giới Saṃghādisesa, tuy vẫn còn là Tỳ khưu, nhưng là vị Tỳ khưu có giới không trong sạch.

Tỳ khưu ấy muốn thoát khỏi Saṃghādisesa āpatti, cần phải đến trình chư Tăng về sự phạm giới nào, hoặc phạm nhiều giới, và xin chịu hành phạt theo luật của Ðức Phật đã ban hành như sau:

- Xin thọ Parivāsakamma

Vị Tỳ khưu ấy xin chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự cho thọ parivāsakamma bằng ñatti-kammavācā.

Vị Tỳ khưu chịu hành phạt thọ parivāsakamma thời gian ấn định là kể từ khi phạm giới saṃghādisesa cho đến khi trình bày cho một vị Tỳ khưu khác nhận biết. Nếu Tỳ khưu ấy che giấu sự phạm giới saṃghādisesa một ngày, thì phải thọ parivāsa một ngày; che giấu một tháng, một năm.... thì phải thọ parivāsa một tháng, một năm....

Trong suốt thời gian bị hành phạt parivāsa, vị Tỳ khưu ấy bị mất một số quyền Tỳ khưu cho đến khi mãn hạn thời gian ấn định hành parivāsakamma xong.

Nếu trường hợp, khi vị Tỳ khưu phạm giới saṃghā-disesa, liền trình báo với một vị Tỳ khưu khác biết, không che giấu, không qua cách đêm, thì vị Tỳ khưu ấy không cần phải thọ parivāsa, chỉ cần xin thọ mānatta mà thôi.

- Xin thọ Mānattakamma

Vị Tỳ khưu ấy, sau khi mãn hạn hành phạt parivāsa xong, đến xin chư Tăng thọ mānattakamma, chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự cho thọ mānattakamma bằng ñatti-kammavācā.

Vị Tỳ khưu chịu hành phạt thọ mānatta ấn định thời gian nhất định 6 đêm.

- Xin thọ Abbhāna

Vị Tỳ khưu, sau khi mãn hạn hành phạt thọ mānatta 6 đêm xong, đến xin chư Tăng thọ abbhānakamma. Chư Tỳ khưu Tăng ít nhất 21 vị trở lên mới hành Tăng sự cho thọ abbhānakamma bằng ñatti-kammavācā.

Sau khi chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng abbhāna ñatti-kammavācā xong rồi, vị Tỳ khưu ấy mới thoát khỏi saṃghādisesa āpatti, giới trở nên trong sạch trở lại, quyền Tỳ khưu hoàn lại như trước.

Trong trường hợp, Tỳ khưu đã phạm saṃghādisesa āpatti rồi, ví dụ che giấu āpatti, không trình báo cho một Tỳ khưu nào khác biết, cho đến khi hoàn tục đúng 6 tháng. Khi trở thành người cận sự nam, thọ trì ngũ giới, bát giới. Như vậy người cận sự nam ấy không còn liên quan đến āpatti của Tỳ khưu nữa. Về sau, người cận sự nam ấy trở lại thọ Sa di, và làm lễ thọ Tỳ khưu. Ngay sau khi trở thành Tỳ khưu, thì đồng thời sự phạm giới saṃghādisesa āpatti trước kia cũng trở lại ngay đối với vị tân Tỳ khưu ấy.

Vị tân Tỳ khưu này, muốn có giới trong sạch, cần phải đến chư Tăng xin chịu hành phạt thọ parivāsa suốt 6 tháng, và thọ mānatta 6 đêm rồi, xin chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng abbhāna xong, tân Tỳ khưu ấy có giới trong sạch.

Pārājika āpatti và saṃghādisesa āpatti đều thuộc về āpatti nặng. Pārājika āpatti vô phương cứu chữa, bắt buộc phải hoàn tục, còn saṃghādisesa āpatti còn có phương cứu chữa bằng cách chịu hành phạt như trên.

3- Thullaccaya āpatti: sự phạm giới Thullaccaya

Thullaccaya không nằm trong một giới nào nhất định; trong trường hợp chưa đến nỗi trực tiếp phạm giới pārājika, cũng chưa đến nỗi trực tiếp phạm giới saṃghādisesa, trường hợp ấy gọi là thullaccaya āpatti: phạm trọng tội.

Tỳ khưu đã phạm thullaccaya āpatti, muốn cho giới trở nên trong sạch, vị Tỳ khưu ấy có thể tìm đến một vị Tỳ khưu khác để sám hối về thullaccaya āpatti ấy. Sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

4- Pācittiya āpatti: sự phạm giới pācittiya

Sự phạm giới pācittiya có 2 loại:

4.1- Nissaggiya pācittiya: Ưng xả đối trị, gồm có 30 điều học. Nếu vị Tỳ khưu nào phạm 1 trong 30 điều học này, vị Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya.

Tỳ khưu muốn cho giới được trong sạch trở lại; điều trước tiên, vị Tỳ khưu cần ấy phải xả bỏ vật làm cho phạm giới, sau đó mới có thể sám hối về pācittiya āpatti ấy. Sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

Nếu vị Tỳ khưu ấy không chịu xả bỏ vật làm cho phạm giới, thì dầu vị Tỳ khưu ấy có sám hối cũng không thể nào thoát khỏi pācittiya āpatti ấy.

Ví dụ:

Vị Tỳ khưu A thọ nhận tiền bạc, thì phạm trong giới nissaggiya pācittiya về tiền bạc, điều trước tiên, vị Tỳ khưu A phải xả bỏ tiền bạc ấy, sau đó tìm đến một vị Tỳ khưu khác để sám hối về pācittiya āpatti ấy. Sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu A có giới trong sạch trở lại.

Nếu vị Tỳ khưu A không chịu xả bỏ tiền bạc là vật làm cho phạm giới, thì dầu cho vị Tỳ khưu A có sám hối, cũng không thể thoát khỏi pācittiya āpatti về tiền bạc ấy.

Và Tỳ khưu A tự mình dùng tiền bạc mua sắm một vật gì, vật ấy là vật phạm giới nissaggiya pācittiya; Nếu vật ấy đã xả bỏ hoặc bị hư mất rồi, thì vị Tỳ khưu ấy có thể sám hối tội pācittiya āpatti ấy được. Nhưng nếu ngược lại, vật ấy chưa xả bỏ hoặc chưa bị hư mất, thì vị Tỳ khưu ấy dầu có sám hối cũng không thể thoát khỏi pācittiya āpatti ấy. Và nếu không may vị Tỳ khưu ấy chết, khi giới không trong sạch, đó là điều tai họa khó tránh khỏi sa đọa địa ngục hoặc súc sanh.

4.2- Suddhi pācittiya: Ưng đối trị, gồm có 92 điều học. Nếu vị Tỳ khưu nào phạm 1 trong 92 điều học này, vị Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya.

Vị Tỳ khưu muốn có giới được trong sạch trở lại, nên tìm đến một vị Tỳ khưu khác xin sám hối về pācittiya āpatti ấy. Sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

5- Pāṭidesanīya āpatti: sự phạm giới pāṭidesanīya

Giới pāṭidesanīya có 4 điều học. Nếu vị Tỳ khưu nào phạm 1 trong 4 điều học này, vị Tỳ khưu ấy phạm pāṭidesanīya āpatti.

Tỳ khưu muốn có giới được trong sạch trở lại, nên tìm đến một vị Tỳ khưu khác xin sám hối về pāṭidesanīya āpatti ấy. Sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

6- Dukkaṭa āpatti: sự phạm giới Dukkaṭa

Tỳ khưu phạm giới dukkaṭa (tác ác) trực tiếp có 75 sekhiya (điều học). Ngoài 75 điều học ra, còn có rất nhiều dukkaṭa āpatti rải rác trong Bhikkhupātimokkha và trong Luật tạng.

Tỳ khưu muốn có giới được trong sạch, cần phải tìm đến một vị Tỳ khưu khác xin sám hối về dukkaṭa āpatti ấy. Sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

7- Dubbhāsita āpatti: sự phạm giới Dubbhāsita

Tỳ khưu phạm giới dubbhāsita (ác khẩu) không có giới riêng biệt rõ ràng, có chung rải rác trong các giới về nói lời vô ích....

Tỳ khưu muốn có giới được trong sạch, cần phải tìm đến một vị Tỳ khưu khác xin sám hối về dubbhāsita āpatti ấy. Sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

Tỳ khưu với āpatti liên quan với nhau, Tỳ khưu thật mới phạm āpatti, Tỳ khưu giả thì không phạm āpatti. Và trong đời này chỉ có 2 Bậc hoàn toàn không phạm āpatti: Ðó là Ðức Phật Toàn Giác Ðức Phật Ðộc Giác.

Ngoài ra, thậm chí các bậc Thánh Tỳ khưu cũng có thể phạm giới thuộc về paññatti vajja: lỗi do Ðức Phật cấm, thì nói gì đến hàng phàm nhân Tỳ khưu. Cho nên việc phạm giới là điều khó tránh được. Trong tất cả sự phạm giới, đều có cách thoát ra khỏi āpatti như đã trình bày ở trên.

"Antarāyika" (nguy hại) có 5 điều. Trong đó có điều Āṇavītikkamantarāyika: Tỳ khưu có tác ý phạm giới là điều nguy hại, ngăn cản cõi trời, thiền định, Thánh Ðạo, Thánh Quả, Niết Bàn.

Trong Chú giải dạy:

"Āpannā āpattiyo’ti, sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā, sañcicca vītikkantañhi antamaso dukkaṭadubbhāsitampi saggamaggaphalānaṃ antarāyaṃ karoti...". [Bộ Maṅgalatthadīpanī, phần Vinayakathā]

"Āpannā āpattiyo’ti": "Tỳ khưu đã phạm giới": nghĩa là Tỳ khưu có tác ý phạm phải 7 loại āpatti, Sự thật, điều nguy hại đối với Tỳ khưu có tác ý phạm giới nhẹ như: dukkaṭa āpatti (tác ác), dubbhāsita āpatti (ác khẩu) cũng có thể làm nguy hại, cản trở sự tái sanh lên cõi trời dục giới, và sự chứng đắc các bậc thiền định, Thánh Ðạo, Thánh Quả...".

Ðức Phật dạy:

"Sāpattikassa bhikkhave nirayaṃ vā vadāmi tiracchānayoniṃ vā’ti. Sāpattikasseva āpāyagamitā vuttā" [Bộ Sāratthadāparūṭīkā , bộ Maṅgalatthadīpanī]

"Này chư Tỳ khưu, Như Lai răn dạy các con: đối với Tỳ khưu phạm āpatti (giới) sẽ tái sanh cảnh địa ngục, hoặc loài súc sanh. Ðối với Tỳ khưu phạm āpatti (giới) chỉ có con đường ác giới mà thôi".

PĀTIMOKKHA

Thỉnh Ðức Phật Thuyết Pātimokkha

Trong Luật tạng, bộ Cūḷavagga, tích Pātimok-khuddesayācana (Thỉnh thuyết giảng Pātimokkha), được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Pubbārama thuộc xứ Sāvatthi. Vào ngày uposatha, Ðức Thế Tôn cùng ngự giữa hội chúng Tỳ khưu Tăng tại sīmā. Khi ấy, đêm đã sang canh đầu, Ðại Ðức Ānanda ngồi chắp tay hướng về Ðức Thế Tôn bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, đêm đã sang canh đầu, chư Tỳ khưu Tăng ngồi đã lâu, kính xin Ðức Thế Tôn thuyết giảng pātimokkha dạy chư Tỳ khưu. Bạch Ngài.

Khi nghe lời thỉnh cầu như vậy, Ðức Thế Tôn ngồi im lặng.

Khi đã sang canh giữa, lần thứ nhì, Ðại Ðức Ānanda ngồi chắp tay hướng về Ðức Thế Tôn bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, đêm đã sang canh giữa, chư Tỳ khưu Tăng ngồi đã lâu, kính xin Ðức Thế Tôn thuyết giảng pātimokkha dạy chư Tỳ khưu. Bạch Ngài.

Ðức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng.

Khi đã sang canh chót, trời sắp rạng đông, lần thứ ba, Ðại Ðức Ānanda ngồi chắp tay hướng về Ðức Thế Tôn bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, đêm đã sang canh chót, trời sắp rạng đông, chư Tỳ khưu Tăng ngồi đã lâu, kính xin Ðức Thế Tôn thuyết giảng pātimokkha dạy chư Tỳ khưu. Bạch Ngài.

Ðức Thế Tôn dạy rằng:

- Này Ānanda, trong nhóm Tỳ khưu này, có Tỳ khưu giới không trong sạch.

Ðại Ðức Moggallāna nghĩ: Ðức Thế Tôn dạy: "Này Ānanda, trong nhóm Tỳ khưu này, có Tỳ khưu giới không trong sạch". Vậy Ngài ám chỉ đến vị Tỳ khưu nào đây?

Ðại Ðức Moggallāna dùng tha tâm thông quán xét đến tâm mỗi vị Tỳ khưu, để biết vị Tỳ khưu nào phạm giới, giới không trong sạch, hành ác, đáng chê trách, che giấu tội lỗi của mình; không phải là Tỳ khưu tự cho là Tỳ khưu, không phải bậc hành phạm hạnh tự cho là bậc hành phạm hạnh; bên trong tâm thối tha, bị ô nhiễm bởi phiền não, như rác ngập nước, vị Tỳ khưu ấy đang ngồi trong nhóm Tỳ khưu. Ngay khi ấy, Ðại Ðức Moggallāna đến gặp vị Tỳ khưu phạm giới ấy bảo rằng:

- Này ông kia, ông hãy đứng dậy đi ra khỏi nơi này, Ðức Thế Tôn đã biết rõ ông rồi! Ông không được ngồi chung với chư Tỳ khưu Tăng.

Dầu Ðại Ðức Moggallāna nói như vậy, song vị Tỳ khưu phạm giới ấy không chịu đi ra.

Ðại Ðức Moggallāna bảo vị Tỳ khưu ấy, như trên lần thứ nhì..., lần thứ ba, vị Tỳ khưu phạm giới ấy vẫn không chịu đi ra.

Ðại Ðức Moggallāna nắm tay vị Tỳ khưu phạm giới ấy dắt ra khỏi cửa rồi cài chốt lại, đi vào hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã bắt vị Tỳ khưu phạm giới ấy đưa ra khỏi nhóm Tỳ khưu Tăng, chư Tỳ khưu Tăng còn lại có giới hoàn toàn trong sạch, kính xin Ðức Thế Tôn thuyết giảng pātimokkha dạy chư Tỳ khưu. Bạch Ngài.

Ðức Thế Tôn dạy rằng:

- Này Moggallāna, thật kỳ lạ! Thật chưa từng có!

Ðến nỗi con phải nắm tay "người rổng tuếch" (moghapurisa) kia đưa ra ngoài.

Tám điều kỳ lạ trong đại dương

Ðức Phật dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, có tám điều kỳ lạ chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy những điều ấy, nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

Tám điều kỳ lạ ấy như thế nào?

1- Này chư Tỳ khưu, đại dương bắt đầu từ cạn đến sâu thẳm, không phải bắt đầu từ sâu thẳm.

Này chư Tỳ khưu, sự tuần tự từ cạn đến sâu thẳm, không phải bắt đầu từ sâu thẳm, là điều kỳ lạ thứ nhất chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

2- Này chư Tỳ khưu, đại dương giữ mực nước bình thường không tràn bờ.

Này chư Tỳ khưu, sự giữ mực nước bình thường không tràn bờ, là điều kỳ lạ thứ nhì chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

3- Này chư Tỳ khưu, đại dương không chứa chấp tử thi, nếu có tử thi, thì đại dương mau chóng đưa vào bờ rồi tấp lên bãi.

Này chư Tỳ khưu, trong đại dương không chứa chấp tử thi, nếu có tử thi thì mau chóng đưa vào bờ rồi tấp lên bãi, là điều kỳ lạ thứ ba chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

4- Này chư Tỳ khưu, tất cả các con sông lớn như sông Gaṅga, sông Yamunā, sông Aciravatī, sông Sarabhū, sông Mahī... khi chảy ra đến đại dương đều từ bỏ tên riêng, dòng sông cũ của mình, được gọi tên chung là "đại dương".

Này chư Tỳ khưu, sự từ bỏ tên riêng của các con sông lớn như sông Gaṅga, sông Yamunā, sông Aciravatī, sông Sarabhū, sông Mahī... khi chảy ra đến đại dương, được gọi tên chung là "đại dương", là điều kỳ lạ thứ tư chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

5- Này chư Tỳ khưu, trên địa cầu này, tất cả dòng sông, rạch lớn, nhỏ chảy ra đại dương, và tất cả các trận mưa lớn rơi xuống đại dương, thế mà trong đại dương sự đầy, sự vơi lại không hiện rõ.

Này chư Tỳ khưu, sự đầy, sự vơi lại không hiện rõ khi tất cả dòng sông, rạch lớn, nhỏ chảy ra, và tất cả các trận mưa lớn rơi xuống của đại dương, là điều kỳ lạ thứ năm chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

6- Này chư Tỳ khưu, nước trong đại dương chỉ có một vị mặn mà thôi.

Này chư Tỳ khưu, chỉ có một vị mặn trong nước đại dương, là điều kỳ lạ thứ sáu chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

7- Này chư Tỳ khưu, trong đại dương có vô số báu vật như ngọc Muttā, ngọc Maṇī, ngọc Veḷuriya, ốc Saṅkha, đá quý, Pavāḷa, bạc, vàng, Lohita, Masārapalla....

Này chư Tỳ khưu, trong đại dương có vô số báu vật như ngọc Muttā, ngọc Maṇī, ngọc Veḷuriya, ốc Saṅkha, đá quý, Pavāḷa, bạc, vàng, Lohita, Masārapalla..., là điều kỳ lạ thứ bảy chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

8- Này chư Tỳ khưu, đại dương là nơi nương nhờ của những loại chúng sinh lớn như cá Timi, cá Timiṅgala, cá Timitimiṅgala, Asurā, Nāgā, Gandhabbā... và các loại chúng sinh có thân hình to lớn 100 do tuần, 200 – 300 – 500 do tuần....

Này chư Tỳ khưu, những loại chúng sinh lớn như cá Timi, cá Timiṅgala, cá Timitimiṅgala, Asurā, Nāgā, Gandhabbā... và các loại chúng sinh có thân hình to lớn 100 do tuần, 200 – 300 – 500 do tuần... đều nương nhờ trong đại dương, là điều kỳ lạ thứ tám chỉ có trong đại dương, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

Này chư Tỳ khưu, tám điều kỳ lạ chưa từng có này, mà nhóm Asura đã nhìn thấy nên vô cùng hoan hỉ với đại dương.

Tám điều kỳ lạ trong Phật giáo

- Này chư Tỳ khưu, cũng như vậy, có tám điều kỳ lạ chỉ có trong Phật giáo này, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ những điều ấy nên vô cùng hoan hỉ trong Phật giáo.

Tám điều kỳ lạ trong Phật giáo là:

1- Này chư Tỳ khưu, ví như đại dương tuần tự từ cạn đến sâu thẳm, không phải bắt đầu từ sâu thẳm. Cũng như vậy, trong Phật giáo, thiện pháp theo tuần tự, pháp hành theo tuần tự, phương pháp thực hành theo tuần tự, không phải bắt đầu từ chứng đắc A-ra-hán Thánh Quả tột bậc.

Này chư Tỳ khưu, thiện pháp theo tuần tự, pháp hành theo tuần tự, phương pháp thực hành theo tuần tự, không phải bắt đầu từ chứng đắc A-ra-hán Thánh Quả tột bậc, là điều kỳ lạ thứ nhất chỉ có trong Phật giáo, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ, nên vô cùng hoan hỉ.

2- Này chư Tỳ khưu, ví như đại dương giữ mực nước bình thường không tràn bờ. Cũng như vậy, trong Phật giáo, Như Lai đã chế định điều học nào rồi, thì đối với hàng Thanh văn đệ tử giữ gìn không dám phạm giới, dầu vì nguyên nhân sanh mạng.

Này chư Tỳ khưu, trong Phật giáo, những điều học nào mà Như Lai đã chế định rồi, đối với hàng Thanh văn đệ tử dầu phải hy sinh thân mạng, quyết không phạm giới, là điều kỳ lạ thứ nhì chỉ có trong Phật giáo, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ, nên vô cùng hoan hỉ.

3- Này chư Tỳ khưu, ví như đại dương không chứa chấp tử thi, nếu có tử thi thì đại dương mau chóng đưa vào bờ rồi tấp lên bãi. Cũng như vậy, trong Phật giáo, Tỳ khưu phạm giới, giới không trong sạch, hành ác, đáng chê trách, che giấu tội lỗi của mình; không phải là Tỳ khưu, tự cho là Tỳ khưu, không phải là bậc hành phạm hạnh, tự cho là bậc hành phạm hạnh; bên trong tâm thối tha, bị ô nhiễm bởi phiền não thấm ướt, là người không có giới (dussīla); chư Tỳ khưu không tiếp nhận Tỳ khưu ấy, khi hội họp hành Tăng sự phải loại bỏ vị Tỳ khưu ấy ra ngoài. Sự thật, dầu vị Tỳ khưu ấy ngồi gần trong nhóm Tỳ khưu Tăng, nhưng vẫn xa cách chư Tăng và chư Tăng cũng xa cách vị Tỳ khưu ấy.

Này chư Tỳ khưu, trong Phật giáo, Tỳ khưu phạm giới, giới không trong sạch, hành ác, đáng chê trách, che giấu tội lỗi của mình; không phải là Tỳ khưu, tự cho là Tỳ khưu, không phải là bậc hành phạm hạnh, tự cho là bậc hành phạm hạnh; bên trong tâm thối tha, bị ô nhiễm bởi phiền não thấm ướt, là người không có giới (dussīla); chư Tỳ khưu không tiếp nhận Tỳ khưu ấy, khi hội họp hành Tăng sự phải loại bỏ vị Tỳ khưu ấy ra ngoài. Sự thật, dầu vị Tỳ khưu ấy ngồi gần trong nhóm Tỳ khưu Tăng, nhưng vẫn xa cách chư Tăng và chư Tăng cũng xa cách vị Tỳ khưu ấy, là điều kỳ lạ thứ ba, chỉ có trong Phật giáo, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ, nên vô cùng hoan hỉ.

4- Này chư Tỳ khưu, ví như đại dương, tất cả các con sông lớn như sông Gaṅga, sông Yamunā, sông Aciravatī, sông Sarabhū, sông Mahī... khi chảy ra đến đại dương đều từ bỏ tên riêng, dòng sông cũ của mình, được gọi tên chung là "đại dương". Cũng như vậy, bốn giai cấp là Bà la môn, vua chúa, thương gia và hạ tiện, khi bỏ nhà xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo, đều từ bỏ gia cấp cũ của mình, được gọi tên chung là "Samaṇa Sakyaputta": Tỳ khưu dòng dõi Sakya mà thôi.

Này chư Tỳ khưu, bốn giai cấp là Bàlamôn, vua chúa, thương gia và hạ tiện, khi bỏ nhà xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo, đều từ bỏ giai cấp cũ của riêng mình, được gọi tên chung là "Samaṇa Sakyaputta": Tỳ khưu dòng dõi Sakya, là điều kỳ lạ thứ tư, chỉ có trong Phật giáo, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ, nên vô cùng hoan hỉ.

5- Này chư Tỳ khưu, ví như trên địa cầu này, tất cả dòng sông, rạch lớn, nhỏ chảy ra đại dương, và tất cả các trận mưa lớn rơi xuống đại dương, thế mà trong đại dương sự đầy, sự vơi lại không hiện rõ. Cũng như vậy, có vô số chư bậc Thánh A-ra-hán, đã tịch diệt Niết Bàn, thế mà đối với Niết Bàn sự đầy, sự vơi không hiện rõ.

Này chư Tỳ khưu, đã có vô số chư bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết Bàn, thế mà trong Niết Bàn sự đầy, sự vơi không hiện rõ, là điều kỳ lạ thứ năm, chỉ có trong Phật giáo, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ, nên vô cùng hoan hỉ.

6- Này chư Tỳ khưu, ví như nước đại dương chỉ có một vị mặn. Cũng như vậy, trong giáo pháp của Như Lai chỉ có một vị giải thoát khổ.

Này chư Tỳ khưu, chỉ có một vị giải thoát khổ trong giáo pháp của Như Lai, là điều kỳ lạ thứ sáu, chỉ có trong Phật giáo, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ, nên vô cùng hoan hỉ.

7- Này chư Tỳ khưu, ví như trong đại dương, có vô số báu vật như ngọc Muttā, ngọc Maṇī, ngọc Veḷuriya, ốc Saṅkha, đá quý, Pavāḷa, bạc, vàng, Lohita, Masārapalla.... Cũng như vậy, trong Phật giáo này, có vô số pháp bảo như: 4 pháp niệm xứ, 4 pháp tinh tấn, 4 pháp thành tựu, 5 pháp chủ, 5 pháp lực, 7 pháp giác chi, 8 pháp chánh đạo....

Này chư Tỳ khưu, có vô số pháp bảo như: 4 pháp niệm xứ, 4 pháp tinh tấn, 4 pháp thành tựu, 5 pháp chủ, 5 pháp lực, 7 pháp giác chi, 8 pháp chánh đạo... trong Phật giáo, là điều kỳ lạ thứ bảy, chỉ có trong Phật giáo, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ, nên vô cùng hoan hỉ.

8- Này chư Tỳ khưu, ví như trong đại dương là nơi nương nhờ của những loài chúng sinh lớn như cá Timi, cá Timiṅgala, cá Timitimiṅgala, Asurā, Nāgā, Gandhabbā... và các loại chúng có thân hình to lớn 100 do tuần, 200 – 300 – 500 do tuần.... Cũng như vậy, trong Phật giáo này, là nơi phát sanh các bậc Thánh nhân, như: bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh A-ra-hán.

Này chư Tỳ khưu, các bậc Thánh nhân, như: bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh A-ra-hán, chỉ phát sanh trong Phật giáo này, là điều kỳ lạ thứ tám, chỉ có trong Phật giáo, mà chư Tỳ khưu đã nhận thấy rõ, nên vô cùng hoan hỉ.

Sau khi Ðức Thế Tôn thuyết giảng tám điều kỳ lạ trong Phật giáo xong, Ngài tự thuyết bài kệ rằng:

"Channamativassati
ivataṃ nātivassati.
Tasmā channaṃ vivaretha
evaṃ taṃ nātivassati".

Phiền não thấm ướt Tỳ khưu che giấu āpatti.
Phiền não không thấm ướt Tỳ khưu sám hối āpatti.
Cho nên, đã che giấu āpatti thì phải nên sám hối.
Như vậy, phiền não không thấm ướt Tỳ khưu đã sám hối āpatti.

Sau đó, Ðức Thế Tôn dạy chư Tỳ khưu rằng:

- Này chư Tỳ khưu, từ nay về sau, Như Lai không hành Tăng sự uposatha, không thuyết giảng pātimokkha nữa.

Này chư Tỳ khưu, chỉ có các con hành Tăng sự uposatha, tụng đọc pātimokkha mà thôi.

Này chư Tỳ khưu, không có một lý do nào mà Như Lai hành Tăng sự uposatha, thuyết giảng pātimokkha trong nhóm Tỳ khưu có Tỳ khưu giới không hoàn toàn trong sạch.

Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu phạm giới không được nghe pātimokkha, Tỳ khưu nào nghe, Tỳ khưu ấy phạm āpatti dukkaṭa.

Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép chư Tỳ khưu cấm Tỳ khưu nào phạm āpatti ngồi nghe pātimokkha.

(Vinaya, Cūḷavagga, phần Pātimokkhuddesayācana).

Tỳ khưu không nên vắng mặt trong ngày uposatha -
Tích Ðại Ðức Mahākappina.

Một thuở nọ, Ðại Ðức Mahākappina ở một mình nơi thanh vắng trong rừng Maddakucchi, gần thành Rājagaha. Hôm ấy, nhằm ngày uposatha, Ðại Ðức Mahākappina ở nơi thanh vắng suy nghĩ trong tâm rằng:

"Gaccheyyaṃ vāhaṃ uposathaṃ na vā gaccheyyaṃ.
Gaccheyyaṃ vāhaṃ saṃghakammaṃ na vā gacheyyaṃ.
Atha khvāhaṃ visuddho paramāya visuddhiyā".

"Ta có nên đi hành lễ uposatha hay không nên đi?
Ta có nên đi hành Tăng sự hay không nên đi?
Sự thật, ta là bậc trong sạch, hoàn toàn trong sạch".

Khi ấy, Ðức Thế Tôn biết rõ điều suy nghĩ của Ðại Ðức Mahākappina, nên Ngài từ núi Gijjhakūṭa dùng thần thông biến đi, rồi hiện ra ngay trước mặt Ðại Ðức Mahākappina tại khu rừng Maddakucchi, mau lẹ như người khỏe mạnh duỗi cánh tay ra hoặc co vào. Ðức Thế Tôn ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn, Ðại Ðức Mahākappina đảnh lễ Ðức Thế Tôn rồi ngồi xuống một nơi hợp lẽ, Ðức Thế Tôn hỏi rằng:

- Này Kappina, có phải con phát sanh suy nghĩ ở trong tâm như thế này chăng?

"Ta có nên đi hành lễ uposatha hay không nên đi?
Ta có nên đi hành Tăng sự hay không nên đi?
Sự thật, ta là bậc trong sạch, hoàn toàn trong sạch".

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, dạ, sự thật đúng như vậy. Bạch Ngài.

Ðức Thế Tôn dạy rằng:

- Các con là những bậc Tỳ khưu phạm hạnh, nếu các con không cung kính, không tôn trọng, không thành tâm, không cúng dường uposatha, thì ai sẽ là người cung kính, tôn trọng, thành tâm, cúng dường uposatha đây!

Này Tỳ khưu phạm hạnh, con phải nên đi hành uposatha! Con không đi không được!

Con phải nên đi hành Tăng sự! Con không đi không được!

Ðại Ðức Mahākappina vâng theo lời dạy của Ðức Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn thuyết pháp khuyên dạy Ðại Ðức Mahākappina xong, Ngài biến đi khỏi nơi ấy, rồi hiện trở lại núi Gijjhakūṭa.

(Vi. Mahāvagga, tích Mahākappinavatthu).

Ðối với Tỳ khưu, việc hành Uposatha không thể thiếu được. Chư bậc Thánh nhân, bậc hoàn toàn trong sạch như bậc Thánh A-ra-hán, lại càng hết lòng thành kính, tôn trọng việc hành uposatha hơn nữa, cốt để duy trì giáo pháp của Ðức Phật được bền vững lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh, chư thiên và nhân loại.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 1.1 | 1.2 | 2.1 | 2.2 | 3.1 | 3.2 | 3.3 | 3.4 | 3.5 | 3.6 | 4.1 | 4.2 | 4.3 | 4.4 | 4.5 | 5.0

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Hộ Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2003).

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 10-06-2003